Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

10. Phẩm Pháp Sư

26 Tháng Sáu 201200:00(Xem: 7346)
10. Phẩm Pháp Sư

KINH PHÁP HOA GIẢNG GIẢI
Lê Sỹ Minh Tùng
PL. 2556 DL. 2012

Phẩm PHÁP SƯ

Download Giọng Đọc: Nguyên Hà

 

Pháp sư là vị thầy thông hiểu chánh pháp, sống với chánh pháptruyền bá chánh pháp, mà pháp được nói là kinh Diệu Pháp Liên Hoa tức là Tri Kiến Phật vốn đã có sẵn trong mỗi chúng sinh. Do đó Pháp sư Pháp Hoa là vị thầy truyền bá, giảng nói, thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa. Vì trong tất cả mọi chúng sinh đều có Tri Kiến Phật giống y như Phật nên Ngài mới thọ ký cho đời sau sẽ thành Phật. Do đó nếu chúng sinh không có sẵn chất vàng này thì Phật không bao giờ dám thọ ký cho ai cả vì Ngài không phải là đấng thần linh, nắm toàn quyền thưởng phạt trong tay. Vì thế thọ ký chẳng qua là lời khuyến khích của đấng đạo sư để giúp con người tăng thêm năng lực mà tự mình vun bồi phước đức, công đức và phát triển trí tuệ để đạt đến cứu cánh tối thượngthành Phật. Nói cách khác tuy Phật có thọ ký cho chúng sinh, nhưng chính sinh phải tự mình hóa giải hết vô minh phiền não để chứng nghiệm chân lý chớ Phật không cho ta quả vị Phật được.

Để dạy cho tám muôn Đại Sĩ, khi bấy giờ Phật nói với Bồ-tát Dược Vương rằng:

-Trong đại chúng đầy đủ hạng người Chư Thiên, Long Vương, Càn-thát-bà, A-tu-la…Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Thanh Văn, Duyên Giác cho đến những người cầu thành Phật đạo. Không để riêng ai, nếu người nào ở trước Phật nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa, một câu một bài kệ nhẫn đến một niệm tùy hỉ, Như Lai đều thọ ký họ là người sẽ thành tựu quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Đối với Phật nhãn thì Ngài nhìn tất cả đều là chúng sinh tức là ai ai cũng đều có Tri Kiến Phật nghĩa là đã có đầy đủ nhân tố tức là có hột giống Phật để tu thành Phật. Vì thế nếu chúng sinh nghe kinh Pháp Hoa ngay cả chỉ cần một câu hay một bài kệ với tâm tùy hỉ thì cũng được Phật thọ ký cho thành Phật. Trong pháp hội này có đầy đủ mọi hạng người từ Thanh Văn, Duyên Giác, trời người, chư thiên, long vương, quỷ thần đều được Phật thọ ký hết, không bỏ sót một ai.

Phật dạy tiếp: Sau Như Lai diệt độ, nếu có người nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa một câu một bài kệ cho đến một niệm tùy hỉ, Như Lai cũng thọ ký cho quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Người nào thọ trì, đọc, tụng, giảng nói, biên chép kinh Diệu Pháp Liên Hoa cung kính cúng dường bằng các thứ trân bảo, hương thơm, trang nghiêm đẹp đẽ… Dược Vương nên biết các người đó đã từng cúng dường mười muôn ức Phật, đã thành tựu đại nguyện, vì thương xót chúng sanh mà sanh vào nhân gian đấy.

Tuy chúng ta sinh vào thời không có Phật, nhưng dựa theo kinh Pháp Hoa đức Phật dạy rằng sau khi Ngài nhập diệt, có người nghe kinh Pháp Hoa cho dù chỉ là một câu, một bài kệ, hay một niệm với tâm hoan hỉ thì cũng được Phật thọ ký sẽ thành Phật. Tại sao lại phải hoan hỉ? Hoan hỉhân hoan chấp nhận rằng trong ta đã có sẵn Tri Kiến Phật tức là Phật nhân rồi sau đó nỗ lực tinh tấn tu hành thì sẽ đạt đến Phật quả. Vì thế người hội nhập Pháp Hoa là người lúc nào cũng biết rằng mình là Phật, chúng sinh là Phật, ai ai cũng là Phật thì từ đó tinh thần vô ngã vị tha sẽ nở rộng trong tâm vì cảm nhận được nỗi khổ của người là nỗi khổ của mình và niềm vui của người cũng là niềm vui của chính mình.

Người nào thọ trì, đọc tụng, giảng nói, biên chép được thì người đó là Pháp sư Pháp Hoa nghĩa là người đó phải tin và hiểu nghĩa lý của kinh Pháp Hoa thấu suốt.

Cung kính cúng dường bằng các thứ trân bảo, hương thơm đẹp đẽ để cúng dường kinh Pháp Hoa tức là cúng dường mười muôn ức Phật…không có nghĩa là chúng sinh phải tìm những thứ trân bảo quý giá đắc tiền để cúng dường chư Phật mà thân ý kinh muốn nói là chúng sinh phải cố gắng vun bồi cái tánh giác tròn đầy của mình trong mọi sinh hoạt, mọi hoàn cảnh. Đó là phải giữ thân, khẩu, ý thanh tịnh. Một ý niệm lành là đã cúng dường cho một vị Phật, một lời nói thiện là đã cúng dường cho một vị Phật khác, một hành động tốt là đã cúng dường cho một vị Phật nữa. Cứ thế mà làm thì những chủng tử thiện sẽ đưa con người trở về gần với chơn tánh của mình tức là đã cúng dường hằng sa chư Phật rồi.

Dược Vương! Nếu có người hỏi trong thời vị lai, những chúng sanh nào sẽ được thành Phật thì nên chỉ những người vừa kể trên mà nói rằng những người đó sẽ thành Phật. Vì sao? Nếu có người trai lành, gái tốt nào thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói dầu là một câu của kinh Diệu Pháp Liên Hoa và dùng các thứ hương hoa, báu vật mà cúng dường, thì người đó đáng được nhân gian chiêm ngưỡngcúng dường như cúng dường Phật vì đó là hàng Đại Bồ tát đã thành tựu Chánh Giác nhưng vì thương chúng sanh mà nguyện sanh trên đời để phân biệt giảng nói kinh Pháp HoaDược Vương nên biết ! Người đó từ bỏ phước báu thanh tịnh để sanh vào đời trược ác, vì chúng sanhtruyền bá giảng nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Sau Như Lai diệt độ, nếu có người trai lành gái tốt có thể vì riêng một người mà nói kinh Pháp Hoa nhẫn đến một câu kinh phải biết người đó là sứ giả của Như LaiNhư Lai sai làm việc của Như Lai, còn nói chi người ở trong đại chúng vì nhiều người giảng nói !

Tuy kinh có nói ở đời sau có những Pháp sư truyền giảng kinh Pháp Hoa, nhưng truyền giảng ở đây là phải nói đúng ý kinh, hợp với chủ đích của kinh, nói đúng chân lý chớ không đưa người nghe vào mê hồn trận nào là tôn thờ, lạy lục, lễ bái, cầu xin Phật hay Bồ Tát thì đây đâu phải là Pháp Hoa tức lả chỉ thấy hình tướng mà không thông được lý nhiệm mầu. Giảng như vậy thà đừng giảng còn ích lợi hơn đưa con người vào con đường mê muội. Thọ trì, biên chép, giảng nói cách nào mà chúng sinh nhận biết rằng chính họ là Phật thì mới nói đúng Pháp Hoa. Nói xa hơn là khi đã thâm hiểu Pháp Hoa thì không cần lạy cúng vị Phật nào để cầu xin sự ban ơn, gia bì vì chính mình là Phật rồi, chính mình cũng có đầy đủ chất Phật là Tri Kiến Phật rồi. Vì vậy muốn thực sự trở thành Phật thì chỉ cẩn kiểm soát thân khẩu ý. Nếu thân khẩu ý hoàn toàn thanh tịnh thì mình là Phật bằng không thì mình là chúng sinh do đó mê là chúng sinh, thức tỉnhgiác ngộ, là Phật. Đạo Phật luôn dạy chúng sinh sốngtheo chân lý, sống đúng với chân lý và sống phù hợp với chân lý.

Dược Vương! Nếu có người bất thiện, dụng ác tâm ở trước Phật chê mắng Phật suốt một kiếp tội còn nhẹ. Nếu có người hung hãn chưỡi mắng người tại gia hay xuất gia thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa thì tội rất nặng.

Tại sao? Nếu chê mắng Phật thì chỉ chê mắng có một vị Phật mà Phật ở đây có thể chỉ là Phật tướng, Phật đồng, Phật gổ thì tội còn nhẹ. Còn người biết thọ trì, ghi chép, giảng nói, đọc tụng kinh Pháp Hoa thì mọi người sẽ biết mình là Phật, tương lai mình sẽ thành Phật vì thế nếu chê bai mắng nhiếc việc làm của họ chẳng khác nào xúc phạm đến vô lượng chư Phật tương lai làm họ thoái tâm Bồ Đề thì tội chắc chắn sẽ nặng hơn nhiều. Kinh Kim Cang có dạy rằng:

Nhược dĩ sắc kiến ngã

âm thanh cầu ngã

Thị nhơn hành tà đạo

Bất năng kiến Như Lai.

Dịch là:

Nếu thấy Ta bằng sắc tướng

Nghe Ta bằng âm thanh

Người nầy đi đường tà

Không thấy được Như Lai.

Một lần nữa chính đức Phật dạy chúng sinh phải phá trừ Vô minh vọng chấp để đạt được trí tuệ Bát Nhã thì mới thật thấy và thật nghe được Phật. Trái lại, nếu còn vô minh vọng chấp có nghĩa là chấp có sắc tướng hay âm thanh của Phật thì không bao giờ thấy được Phật. Bởi thế nên Phật mới quở là “Người nầy đi đường tà” tức là vọng thì sẽ không bao giờ thấy được Như Lai. Như thế nếu từ cửa Bát Nhã là cửa “Không” chúng ta bước vào trong nhà thì bây giờ mới thấy được tâm Phật của mình. Nếu sống với tâm Phật nầy là mở rộng cánh cửa giải thoát để chứng ngộ Niết bàn. Nhưng đây là một thứ Niết bàn tự tánh thường vắng lặng mà thường sáng suốt. Nó vẫn thường bộc lộ sáng suốt nơi chư Phật mà vẫn thường sẵn có nơi mọi loài chúng sinh. Mà kinh gọi là Phật tánh, là Chơn tâm, là Như Lai tạng. Chính tự tánh Niết bàn nầy có đầy đủ bốn đức là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. “Thường” nghĩa là không bị chi phối bởi tánh vô thường, khi nào cũng như khi nào, không lên bổng xuống trầm, không còn già trẻ, sống chết đổi thay.“Lạc” là không còn khổ não lo buồn, an vui tự tại. “Ngã” là được hoàn toàn tự chủ và không bị nội tâm hay ngoại cảnh chi phối. “Tịnh” là không còn ô nhiễm, luôn luôn thanh tịnh, trong sáng.

Kinh nói tội nặng không có nghĩa là Phật sẽ đọa mình vào địa ngục hay Phật sai nam tào bắc đẩu đến xóa sổ mà tội nặng là mình không chấp nhận chính mình có khả năng thành Phật, chính mình không tin khả năng chuyển hóa thân khẩu ý của mình cho thật thanh tịnh ðể Phật chất ðýợc hiển lộ. Do ðó tội nặng là tự mình chôn vùi cuộc đời của mình vào trong bể trầm luân, không có lối thoát thế thôi chớ có ai bắt tội mình đâu. Vì thế trong kinh Đại Tạng có câu: “Tội hành nghiệp cảm” nghĩa là con người làm biết bao tội nghiệp trái với chơn lý thì chính họ sẽ cảm lấy cái quả báo nó sẽ đến với họ do đó Phật giáo phủ nhận hoàn toàn chủ thuyết Thượng đế vì nếu Thượng đế sinh ra ta thì ai sinh ra Thượng đế? Cho nên chính ta mới là Thượng đế của chính mình, chính ta mới có đủ khả năngnăng lực làm chủ cuộc đời của mình và chỉ có ta mới thay đổi được định mệnh của mình chớ không ai khác.

Dược Vương! Người đọc tụng kinh Pháp Hoa, phải biết người đó dùng đức trang nghiêm của Phật tự trang nghiêm mình. Như Lai dùng vai mà vác người đó. Mọi người nên dùng những thứ: hương hoa, kỹ nhạc quý báu nhất trong cõi đời để cúng dường. Vì sao? Bởi vì nghe pháp của người đó nói trong khoảng giây lát bèn được tỏ ngộ chân lý rốt ráo đối với quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Để lập lại nghĩa trên đức Thế Tôn nói một bài kệ.

Người đã có đức tin vững chắc nơi kinh Pháp Hoa thì người đó dùng đức trang nghiêm của Phật tự trang nghiêm cho mình. Tại sao? Bởi vì họ lấy trí tuệ nhận thức chân lý của Phật dạy để áp dụng trong đời sống của mình thì mình sẽ được sự an lành, có sự giải thoát như Phật. Hằng ngày chúng sinh nên kiểm soát thân khẩu ý của mình, phải biết sống trong thức tĩnh và luôn giữ chánh niệm thì những ác niệm, tà kiến không bao giờ dấy động trong tâm của mình. Vọng niệm tan biến thì tịch diệt hiển bày, thân tâm tự tại.

Rồi đức Phật dạy tiếp:

-Dược Vương ! Kinh điển của ta có thể nói nhiều vô lượng, đã nói đang nói và sẽ nói mà trong đó kinh Pháp Hoa khó tin và khó hiểu. Kinh nầy là tạng bí yếu của chư Phật, không thể truyền trao khinh suất bừa bãi cho những người không đúng đối tượng căn cơ. Đây là thứ kinh chư Phật giữ gìn cẩn mật chưa từng diễn nói. Bởi vì Như Lai còn tại thế nói ra còn nhiều người oán ghét huống chi sau khi Như Lai diệt độ.

Dược Vương nên biết: Sau Như Lai diệt độ, người nào thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói cho người khác nghe, Như Lai lấy y mà trùm, người đó được chư Phật trong mười phương hộ niệmNhư Lai lấy tay xoa đầu và người đó cùng với Như Lai ở chung.

Từ khi đức Phật thành đạo cho đến khi Ngài nói kinh Pháp Hoa thì Ngài thuyết rất nhiều nào là Tứ Diệu Đế, nào là Thập Nhị Nhân duyên…nhưng kinh Pháp Hoa mới là bậc nhất vì nghĩa lý siêu xuất của nó nên tuy Pháp Hoa là đệ nhất kinh văn mà lại là kinh khó tin, khó hiểu nhất. Cái tuyệt của kinh là chỉ thẳng Tri Kiến Phật, là chỗ giác ngộ viên mãn mà Phật đã thành tựu và Ngài biết mỗi chúng sinh cũng có sẵn cái Tri Kiến Phật giống y như Phật nên Ngài mới khai mở, chỉ bày, làm tỏ ngộ và thâm nhập cái thấy biết của mình để chúng sinh tu thành Phật như Ngài. Kinh Pháp Hoa là tạng pháp quan trọng và bí mật nhất của mười phương chư Phật nên phải có đúng đối tượng mới có thể tiếp thọ và thọ trì nó được. Khi Phật nói kinh Pháp Hoa thì có một số người chẳng những không tin mà còn sinh tâm oán hận vì vậy mai sau khi Phật nhập diệt thì chắc chắn số người xem thường, phỉ báng sẽ không ít.

Mãi sau khi đức Phật nhập diệt, nếu có người thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa cho người khác nghe thì sẽ được Phật lấy y Cà sa trùm lên người đó và còn được mười phương chư Phật luôn gia bị bảo hộ cho người đó và được Phật lấy tay xoa đầu khiến cho họ khai mở đại trí tuệ. Có thật như thế chăng? Nếu chúng ta thọ trì kinh Pháp Hoa tức là chúng ta tin nhận nơi mình có Tri Kiến Phật tức là trong ta đã có Phật (tánh) hiện hữu thường hằng rồi. Nói cách khác thọ trì kinh Pháp Hoa là biết ta là Phật, chúng sinh là Phật, ai ai cũng đều là Phật vì vậy Phật xoa đầu, lấy y trùm hay ở với chúng ta là vậy. Nên nhớ chữ Như Lai kinh dùng ở đây không phải là đức Phật Thích Ca mà chỉ cho Pháp thân, Phật tánh, Tri Kiến Phật, là bản thể thanh tịnh của tất cả mọi chúng sinh.

Dược Vương! Ở nơi chốn nào có kinh nầy hoặc giảng nói hoặc đọc tụng nên xây tháp bằng bảy báu cao rộng đẹp đẽ mà trong đó không cần tôn trí xá lợi. Bởi vì trong đó có tòan thân Như Lai rồi. Nên dùng các thứ hương hoa, trân bảo, tràng phan… để cúng dường tháp. Người nào thấy tháp lễ bái cúng dường, phải biết những người đó đã gần gũi với quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Tại sao Phật dạy bất cứ ở nơi nào mà có người giảng nói, đọc tụng kinh Pháp Hoa hoặc có kinh Pháp Hoa thì nên xây tháp bằng bảy báu cao rộng đẹp đẽ mà trong đó không cần để Xá Lợi? Bởi vì kinh Pháp Hoa nói về Tri Kiến Phật tức là Phật tánh sẵn có nơi mỗi chúng sinh cho nên có kinh Pháp Hoa là có Pháp thân, Phật tánh hiện bày ở đó rồi nên không cần Xá Lợi nữa. Còn người đọc tụng, thọ trì kinh Pháp Hoa là người tin rằng chính mình có Phật tánh tức là mình là Phật, mình sẽ thành Phật. Mà con đường để viên thành Phật quả thì chúng sinh phải giữ gìn thân khẩu ý cho thanh tịnh. Mỗi ý niệm lành, một lời nói thiện hay một hành động tốt là những trân bảo để cúng dường cho vị Phật trong tâm của chúng ta.Nếu nói về vật chất thế gian thì bảy báu là vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, trân châu, san hômã não. Nhưng ở đây, bảy báu là bảy con đường thiện xảo đưa con người từ mê đến giác, từ phàm đến Thánh. Đây chính là Thất Thánh Tàigồm có: Giới, Tín, Văn, Sám hối, Tinh tấn, Buông xảTrí tuệ.

Vànglà vật cao quý chẳng khác gì Giới

Bạclà sự thay trắng đổi đen nên ám chỉ cho Tín tức là lòng tin tưởng vào Phật pháp, không còn nghi ngại.

Lưu lylưu chuyển tượng trưng cho Văn tức là tánh nghe.

Xà cừhình tướng xấu xa nên ám chỉ cho Sám hối.

Trân châulà thanh cao tượng trưng cho Tinh tấn.

San hôthì tượng trưng cho Buông xả.

Mã nãothì sáng chói tượng trưng cho Trí tuệ.

Bồ tát hành đạo mà chưa thấy chưa nghe được kinh Diệu Pháp Liên HoaBồ tát chưa khéo tu đạo Bồ tát. Những chúng sanh cầu Phật đạo, hoặc thấy hoặc nghe, nghe rồi tin hiểu thọ trì nên biết người đó đã gần gũi với quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác rồi. Thí như có người khát nước đào giếng ở gò cao, đào thấy đất còn khô, biết rằng gần tới nước. Bồ tát cũng vậy, thọ trì, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa phải biết quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đối với Bồ tát đó gần kề.

Phật dạy rằng Bồ Tát hành đạo mà chưa nghe thấy kinh Pháp Hoa thì họ chưa khéo tu đạo Bồ Tát. Tu hạnh Bồ Tát là vì người quên mình cho nên nếu không biết kinh Pháp Hoa nghĩa là không biết trong mỗi chúng sinh đã có mầm giống Phật, là Phật tánh thường hằng vĩnh cữu vì thế khi biết mọi người là Phật thì các hạnh của Bồ Tát dễ thực hành bởi vì làm việc cho Phật thì họ không câu chấp trong khi phục vụ cho người thì có lúc tiến có lúc lùi. Thêm nữa, người trở về với Phật tánh của chính mình là người gần với Phật rồi nên họ rất gần với đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Ở đây Phật dùng thí dụ con đường trở về với Phật tánh cũng như người đào giếng. Muốn đào một cái giếng sâu bảy, tám thước thì trước hết đào lớp đất cứng trên mặt, rồi sau đó tới lớp đất mịn và sau cùng mới tới lớp đất ướt. Cũng vậy, người nào biết thọ trì giảng chép kinh Pháp Hoa là chính họ tự đặt đầy đủ niềm tin rằng họ sẽ thành Phật. Đây là Phật nhân rất cần thiết làm nhân địa tu hành để hoàn thành Phật quả tức là có đi mới có đến vì thế họ đang đi trên còn đường Vô thượng Bồ Đề nên Phật nói họ sắp thành Phật là vậy.

Dược Vương! Nếu Bồ Tát nào nghe kinh Pháp Hoakinh nghi sợ sệt đó là Bồ tát mới phát tâm. Nếu hàng Thanh Văn nghe kinh này mà kinh nghi sợ sệt đó là hàng Thanh Văn tăng-thượng-mạn.

Kinh Pháp Hoa là Phật chỉ thẳng Tri Kiến Phật cho nên nếu tin nhận trong ta đã có sẵn cái Tri Kiến Phật này làm nhân địa tu hành thì người đó nhất định sẽ thành Phật. Tri Kiến PhậtPhật nhân còn thành PhậtPhật quả. Do đó nếu Bồ Tát tu là để thành Phật mà khi nghe kinh Pháp Hoa lại lo sợ thì đủ biết hạng Bồ Tát này chỉ là phát tâm Bồ Tát, là người mới bắt đầu nên chưa hiểu, chưa tin. Ngược lại đối với hàng Thanh Văn là những người chứng đạo mà không muốn tiến tu để hoàn thành Phật đạo thì Phật gọi họ là những người tăng thượng mạn hay định tánh A la hán. Nhắc lại khi Phật bắt đầu nói kinh Pháp Hoa thì có trên 5.000 người gồm A la háncư sĩ nam, nữ đã rời pháp hội. Phật nói tăng thượng mạnám chỉ cho những người này.

Dược Vương! Nếu có trai lành gái tốt sau Như Lai diệt độ muốn vì hàng tứ chúng mà nói kinh Pháp Hoa thì nên ở trong nhà Như Lai, mặc y Như Lai và ngồi trên tòa của Như Laithuyết kinh. Nhà Như Laitâm từ bi. Y Như Lai là nhẫn nhụcTòa Như Lai là “ Vạn Pháp Giai Không”.

Dược Vương, Phật dù ở thế giới khác xa xăm nhưng Phật sai hàng hóa nhơn, hàng tứ chúng (Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di) đến nghe pháp và tin nhận thuận theo không chống trái. Nếu nói pháp ở chổ vắng Như Lai sai Thiên Long, Càn Thát Bà… đến nghe pháp. Phật dù ở nước khác nhưng khiến người nói pháp luôn luôn được thấy thân ta. Nếu có quên sót câu lối. Như Lai sẽ nhắc cho họ nói kinh được đầy đủ.

Để lập lại nghĩa trên Thế Tôn nói một bài kệ.

Sau khi đức Phật nhập diệt, ở đời sau nếu có người muốn nói kinh Pháp Hoa thì người đó phải ở trong nhà Như Lai, mặc y Như Lai và ngồi trên tòa của Như Laidiễn thuyết. Thế nào là nhà Như Lai? Nhà Như Lai là có đủ tâm đại từ bi rộng lớn đối với tất cả chúng sinh. Tâm đại bi là tâm thương xót chúng sinh, xem sự đau khổ của chúng sinh là sự đau khổ của chính mình, làm việc vì người không quảng ngại khó nhọc, chấp nhận nghịch cảnhtâm không sân hận, kiên nhẫn giúp người vượt qua bể khổ sông mê. Mặc y Như Lai là có tâm nhu hòa, nhẫn nhục đối với mọi khổ chướng, không có lửa vô minh nóng giận. Ngồi tòa Như Lai là phải có trí tuệ rộng lớn thấy rõ thật tướng của vạn phápKhông tướng bởi vì tất cả các pháp không có tự thể cố định cho nên vạn pháp là Không.

Tại sao Phật đưa ra ba điều kiện để một người có thể giảng nói kinh Pháp Hoa thay vì chỉ đọc tụng, thọ trì hay biên chép giảng nói bình thường? Kinh Pháp Hoa là kinh nói về Tri Kiến Phật tức là trí tuệ của Phật. Mà Tri Kiến PhậtPhật tánh, là tánh giác vốn có sẵn nơi mỗi chúng sinh, nhưng vì bị vô minh vọng chấp che lấp. Vì thế muốn cho cái tánh giác này được hiển lộ thì phải phát triển trí tuệ để thấy biết rõ ràng thật tướng của tất cả các pháp không có tự thể cố định chỉ tùy duyên tạm có nên huyễn hóa không thật.Thí dụ hằng ngàymắt vẫn thấy sắc như nhà to, xe đẹp, áo lụa, quần là…Nếu là người thường thì dễ bị nó lôi cuốn, nhận chìm, mê hoặc vào đó, nhưng đối với người có tư duy chánh niệm thì nhận thức được hiện tượng của vạn phápvô thường nên tâm họ không hề bị dính mắc. Họ quán rằng vạn pháp là không nghĩa là tất cả mọi vật thể trong thế gian này dù to lớn như mặt trời, mặt trăng hay nhỏ như hạt cát như vi trần đều do duyên khởi tác tạo mà thành chớ không vật nào tự nó sinh khởi hay tồn tại được cho nên vật thể là vô ngã, không có tự thể nên tuy là có, là thấy sờ sờ ở đó nhưng một ngày nào đó nó sẽ bị biến hóa, tiêu hoại nên gọi là không. Do đó, cái không của Phật giáo là không tham đắm, si mê, không chấp thủ chạy theo hình sắc sinh diệt chớ không phải dùng thần thông hay quán làm biến đi tất cả. Người có tư duy, chánh niệm khi thấy đóa hoa đẹp thì họ vẫn biết cái đẹp của hoa đấy chứ, nhưng họ quán rằng đóa hoa là dotrùng trùng duyên khởi mà thành vì vậyđến tuần sau đóa hoa bắt đầu héo úa, tàn phai rồi trở thành phân bón cho nên nhìn đóa hoa thì họ cũng nhìn, cũng biết nó đẹp, nhưng không đắm nhiễm say mê, lúc nào cũng tự tại với sắc đẹp. Lấy đóa hoa làm tiêu chuẩn để nhìn tất cả những hình sắc khác trên thế gian này cho nên tuy mắt có nhìn các loại trân châu bảongọc quý báu, đẹp đẽ đến đâu thì nó cũng là loại vô thường hoại diệt. Ngược lại nếu nhìn theo con mắt của phàm nhân thì tham đắm, say mê rồi chấpthủ đem về làm của riêng cho mình đưa đến tranh chấp, chiến tranh giết hại lẫn nhau. Nói tóm lại, người biết đạo thấy đẹp thì cũng biết là đẹp, nhưng họ biết vật chất đó từ “Không” mà “Có” vì thế một ngày nào đó từ “Có” sẽ trở thành “Không” cho nên thấy tất cả vật chất nhưng không bị chúng lôi cuốn nhận chìm nên họ mới có an nhiên tự tại được. Đó chính là “Kiến sắc phi can sắc” vậy. Người học Phật không những thấy biết rõ ràng sự hoại diệt, vô thường của thế gian mà còn thấy rốt ráo sự trường tồn vĩnh cửu tức là tánh vô sanh vô diệt của vạn pháp nữa. Bởi vì lúc đóa hoa tàn úa thì từ cái diệt này bắt đầu cho sự sanh khác để tạo thành đóa hoa mới.Đó là hiện tượng quy về bản thểbản thể duyên khởi thành ra hiện tượng cho nên không có cái gì là thật sinh hay cái gì là thật diệtnghĩa làsinh để rồi diệt, diệt rồi lại sinh, sinh sinh diệt diệt vô cùng vô tận nên sinh diệt, sống chết là chuyện thường, chẳng có gì quan trọng nên không còn lo sợ, buồn phiền. Chúng sinh khi thấy mình già yếu, bệnh tật thì đau khổ, lo âu, sợ sệt. Ngược lại, đối với người biết đạo thìsống chết là chuyện bình thường, tử sanh là trò dâu biển nằm trong chu kỳ bất biến tùy duyên rồi tùy duyên bất biến thế thôi.

Con người có khổ, có nhiều tham vọng, có sống chết bảo vệ những cái có của họ cũng vì họ chấp thế gian là thật, nhà cửa là thật, xe cộ là thật, thân này là thật ngay cả vọng tưởng cũng cho là thật. Bây giờ hãyquán rằng “vạn pháp giai không” nghĩa là thân này là do duyên giả hợp tạm có, thế gian vũ trụ cũng là tướng duyên hợp không thật ngay cả vọng tưởng cũng là tướng duyên hợp chợt hiện chợt mất. Vì vậy khi biết thân này không thật, cảnh vật không thật, vọng tưởng không thật, tiền tài danh vọng như giấc mộng, như huyễn hóa, như bọt nước, như bong bóng trời mưa, như làn sương buổi sáng, như ánh điện chóp nhanh, có đó rồi mất đó, rốt cuộc chẳng có gì.

Nếu người có đủ ba điều kiện trên mà vì chúng sinh nói kinh Pháp Hoa thì Phật sẽ sai hóa nhân và hàng tứ chúng đến để nghe pháp. Người nói kinh Pháp Hoa là người tin rằng chính mình có Tri Kiến Phật tức là có Phật tánh rồi cho nên họ có thuyết kinh Pháp Hoa ở bất cứ nơi nào thì ở nơi đó đã có Phật gia hộ cho họ.

Tóm lại, trong phẩm này đức Phật tán thán kinh Pháp Hoa là kinh quý hiếm nhất trên đời vì thế Phật tán thán những ai biết thọ trì, đọc tụng, giảng nói kinh Pháp Hoa cho mọi người để cho họ biết rằng trong họ đã có sẵn Tri Kiến Phật. Tri Kiến PhậtPhật nhân và từ đó con người sẽ tinh tấn nỗ lực loại bỏ hết vô minh phiền não để trở về với Phật quả của mình tức là thành Phật. Muốn trở thành một vị pháp sư lỗi lạc để truyền bá kinh Pháp Hoa thì phải hội đủ ba điều kiện là có tâm đại từ bi, biết nhu hòa nhẫn nhục và sống bằng trí tuệ Bát Nhã.

Sau cùng nếu chúng sinh biết thọ trì, đọc tụng, giảng nói kinh Pháp Hoa thì chính họ đã phát huy chủng tử Phật tức là Tri Kiến Phật trong họ rồi. Nói thế không phải Tri Kiến Phật chỉ dành cho những người biết kinh Pháp Hoa, đọc kinh Pháp Hoa, giảng nói kinh Pháp Hoa hay biết một bài kệ hay một chữ kinh Pháp Hoa mà thật ra Tri Kiến Phật đã có sẵn trong tất cả mọi chúng sinh cho dù họ không biết gì về kinh Pháp Hoa cả. Nói cách khác biết đọc, tụng, thọ trì kinh Pháp Hoa thì được Phật thọ ký cho thành Phật, nhưng không biết gì về kinh Pháp Hoa cũng vẫn được Phật thọ ký như thường. Tuy nhiên, muốn thành tựu cái Tri Kiến Phật đó người đệ tử Phật phải thực hành rốt ráo ba điều kiện Phật dạy ở trên chớ không chỉ là lễ bái, trì tụng suông mà cho là đủ công đức sẽ thành Phật. Vì vậy thành Phật thì ai cũng có khả năng thành, nhưng thật sự có thành hay không còn tùy thuộcchúng sinhđứng đắn thực hành ba điều kiện Phật dạy hay không.

Phẩm này cho thấy tầm quan trọng của Pháp cũng quan trọng như Phật. Chúng sinh thường cúng dường Phật thì ở đây kinh dạy rằng cúng dướng Pháp cũng có đầy đủ phước đức như cúng dường Phật vậy cho nên niệm Pháp cũng tương đương với niệm Phật vì đó là niệm tâm tức là thức tỉnh cái Tri Kiến Phật vốn có của mình. Đến đây là phần kết thúc của phần Tích môn (đức Phật lịch sử tức là Phật Thích Ca) dựa theo luận thuyết Thiên Thai tông của Đại sư Trí Khải và chuẩn bị mở cửa để vào pháp giới Bổn môn, là thế giới của mười phương chư Phật quá, hiện, vị lai.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29900)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27181)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21771)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22234)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23612)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20431)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20056)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21949)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24758)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18994)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24771)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30981)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23994)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27766)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26526)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21328)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23232)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38142)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18806)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19987)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19052)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23174)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23893)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22821)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22925)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29585)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20646)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18714)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15849)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18865)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19689)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20160)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19958)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18128)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22948)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34172)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16425)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16921)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39266)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26083)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20100)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18860)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24067)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29151)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22906)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30969)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21013)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26860)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20679)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26268)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23338)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19824)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24688)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30048)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20229)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20410)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15146)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15841)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23906)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant