Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

13. Phẩm Khuyên Trì

26 Tháng Sáu 201200:00(Xem: 6955)
13. Phẩm Khuyên Trì

KINH PHÁP HOA GIẢNG GIẢI
Lê Sỹ Minh Tùng
PL. 2556 DL. 2012

Chương Thứ Mười Ba

Phẩm KHUYÊN TRÌ

Download Giọng Đọc: Nguyên Hà 

 

Khuyên là khuyên nói, trì là giữ gìn. Vậy khuyên nói và giữ gìn cái gì? Người tu theo kinh Pháp Hoa nên giảng giải, đọc tụng, sao chép và giữ gìn cho kinh này tồn tại mãi mãithế gian.

Hãy nghiệm lại bài “KHAI KINH KỆ”:

Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp

 Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ

 Ngã kim kiến văn đắc thọ trì

 Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa

Nghĩa là:

Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu

Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu

Con nay nghe được chuyên trì tụng

Nguyện rõ Như Lai nghĩa nhiệm mầu

Giáo lý Pháp Hoathậm thâm vi diệu, không còn triết lý nào trên thế gian mà cao siêu hơn được tại vì kinh Pháp Hoa chỉ rõ Tri Kiến Phật vốn có sẵn nơi mỗi chúng sinh cho nên có câu “Thành Phật tu Pháp Hoa” là vậy. Giáo lý quá huyền diệu nhiệm mầu cho nên dễ gì trong muôn vạn kiếp mà thấy biết được. Vì vậy khi đã biết Pháp Hoa, chúng sinh nên tiếp nhậnhành trì nghĩa là áp dụng những giáo lý nhiệm mầu đó vào trong cuộc sống tức là lấy tinh thần Pháp Hoa làm tiêu chuẩn mà hóa giải cho thân khẩu ý được hoàn toàn thanh tịnh. Muốn đạt đến trình độ này chúng sinh phải thấu hiểu rốt ráo thâm nghĩa của kinh vì thế kinh là để nghiên cứu, tham học, tư duy để tìm cái chân lý ẩn bên trong rồi đem chân lý đó hành trì trong cuộc sống để có giải thoát giác ngộ chớ kinh không để tụng trước bàn thờ Phật. Trong lịch sử Phật giáo, chưa có người nào tụng kinh mà trị hết bệnh tham, sân, si mà chính họ phải tự tu sửa, phải tham thiền tức là tham tánh và niệm Phật tức là niệm tâm để hóa giải dần dần những căn bản vô minh phiền não đó. Chỉ khi nào chúng sinh tự nghiệm biết sự tai hại của tham, sân, si mạn, nghi thì chính họ mới hóa giải nó được. Có biết rõ bộ mặt thật của kẻ thù thì con người mới chiến đấu và có cơ hội thắng nó. Ngược lại, nếu nhận giặc phiền não làm con thì sẽ trôi nổi trong biển ái sông mê, lang thang lẩn thẩn triền miên không có lối thoát.

Một khi được kinh Pháp Hoa khai mở, chỉ bày để tự nhận ra nơi mình có Tri Kiến Phật thì chúng sinh phải “giữ gìn” làm tỏ ngộ và thâm nhập cái Tri Kiến Phật đó và không để cho phiền não trần lao che phủ. Sống trong tỉnh thức chánh niệmbiết mình lúc nào cũng có Tri Kiến Phật tức là “Trì” vậy.

Lúc bấy giờ Bồ-tát Dược Vương và Bồ-tát Đại Nhạo Thuyết cùng hai muôn Bồ-tát quyến thuộc, ở trước Phật nói lên lời thề rằng:

-Cúi xin Thế-Tôn chớ lo, sau Phật diệt độ chúng sanh tôi sẽ tuân giữ, đọc tụng kinh điển nầy. Chúng sanh trong đời ác về sau, căn lành lần lần ít, kiêu ngạo nhiều thêm tham lợi háo danh, trồng sâu nghiệp bất thiện, xa lìa giải thoát. Tuy khó giáo hoá như vậy, chúng con sẽ dùng sức nhẩn lớn, trì tụng biên chép diễn nói, hy sinh mọi cách thậm chí không tiếc thân mạng để giáo hoá cho họ.

Dược Vương là vị Bồ Tát ban cho thuốc hay để chữa cho thân và tâm bệnh của chúng sinh. Dựa theo kinh Quán Dược Vương Dược Thượng Nhị Bồ Tát, trong vô lượng vô biên A tăng ký kiếp quá khứđức Phật hiệu là Lưu Li Quang Chiếu Như Lai, cõi nước của đức Phật này là Huyền Thắng Phan.

Sau khi đức Lưu Li nhập Niết bàn, trong thời tượng phápTỳ kheo Nhật Tạng, thông minh, đa trí, diễn nói cho đại chúng nghe pháp Đại thừa Vô Thượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Đại Huệ của Như Lai. Bấy giờ, trong đại chúngtrưởng giả Tinh Tú Quang, nghe pháp Đại thừa Bình Đẳng Đại Huệ nên lòng rất vui mừng bèn đem thuốc hay của núi tuyết cúng dường cho Tỳ kheo Nhật Tạng cùng chúng tăngphát nguyện rằng “đem công đức này để hồi hướng đạo Vô Thượng Bồ Đề, nếu có chúng sinh nào nghe tên tôi, nguyện cho họ tiêu trừ ba thứ bệnh khổ. Khi ấy, em của trưởng giả tên Điền Quang Minh cũng theo anh mang đề hồ, thuốc hay để cúng dường cho Tỳ kheo Nhật Tạng và cũng phát tâm Bồ Đề rộng lớn, nguyện được thành Phật.

Khi đó, đại chúng khen ngời trưởng giả Tinh Tú Quang là Dược Vương, còn em là Điền Quang MinhDược Thượng là hai vị Bồ Tát Dược VươngDược Thượng sau này.

Đại Nhạo Thuyết là vị Bồ Tát thành tựu tứ vô ngại biện tài:

1) Pháp vô ngại : Khi đã thành tựu trí tuệ thì nhìn vạn pháp thấy cái gì cũng đúng với chân lý nên khi thuyết pháp biến tất cả các pháp trở thành Phật pháp. Thí dụ như khi thấy lá rụng, tuyết rơi thì nghĩ ngay đến sự tạm bợ, vô thường

2) Nghĩa vô ngại : là biết đúng nên nói đúng, nói chánh ngữ, đúng nghĩa, không sai chân lý.

3) Từ vô ngại : là lời nói trôi chảy, không ngăn ngại.

4) Lạc thuyết vô ngại là càng nói càng thêm phấn khởi, dồi dào phong phú chớ không bao giờ bị bế tắc.

Đứng về phương diện ý thức, tư tưởng thì tứ vô ngại được gọi là tứ vô ngại trí tức là do trí tuệ mà phát sinh ra bốn thứ vô ngại. Còn dựa trên ngôn từ diễn đạt mà nói thì gọi là tứ vô ngại biện tức là tứ vô ngại biện tài. Sau cùng khi chúng sinh nhìn kinh điển mà có thể nhận thức, thấy biết ngay thì gọi là tứ vô ngại giải, nghĩa là đọc kinh thì biết ngay ý nghĩa mà khỏi cần nghiên cứu.

Vì có tứ vô ngại biện tài nên Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết mới dám đảm nhận trách nhiệm truyền bá kinh Pháp Hoathế giới Ta Bà đầy uế trược nầy.

Tinh thần Pháp Hoa là trong mỗi chúng sinh đã có sẵn Tri Kiến Phật cho nên nếu đứng về phương diện chân đế mà nói thì vào thời đức Phật còn tại thế và thời sau ngày Phật Nhập diệt con người trước sau như vậy, Phật tánh không tăng cũng không sa sút. Nhưng bây giờ nếu nhìn theo lăng kính của tục đế thì tâm của chúng sinh có thay đổi tùy theo hoàn cảnh xã hội, môi trường sống và đạo đức nhân bản trong xã hội đó. Nói chung, con người càng chạy theo vật chất thì tâm linh thiếu thăng bằng. Càng tham muốn thì dục vọng càng tăng trưởng để sai sử họ dấn thân vào con đường khổ, phiêu lưu dám làm những chuyện trái với lương tâm. Vì thế kinh Pháp Hoa đóng một vai trò tối quan trọng vào trong cuộc sống của con người đó là nhắc nhở cái “Tri Kiến Phật” là chơn tánh hằng sáng thanh tịnh vốn đã có sẵn trong mỗi chúng sinh. Do đó nếu con người trực nhận được tri kiến Phật của mình thì chắc chắn cuộc sống của họ không bao giờ chao đảo chông chênh. Phải chăng đây là bản hoài của chư Phật và Bồ Tát thị hiện trong thế gian này để giúp chúng sinh chuyển mê khai ngộ, lìa khổ được vui?

Bấy giờ trong đại chúng 500 A-la-hán đã được thọ ký, bạch Phật rằng: Thế Tôn ! Chúng con cũng tự thệ nguyện truyền bá rộng kinh nầy ở những nước khác.

Lại có 8.000 vị hữu học, vô học cũng đã được thọ ký rồi, lập lời thề trước Phật: Chúng con cũng ở nơi nước khác giảng nói rộng kinh nầy. Tại vì cõi nước Ta-Bà phần lớn con người hay che giấu điều ác, ôm lòng tăng-thượng-mạn, công đức cạn mỏng, hận thù, nịnh hót vì tâm không thành Phật.

Đoạn trước các vị Bồ Tát Dược Vương và Đại Nhạo Thuyết đại diện cho hàng Đại Bồ Tát phát nguyện cùng chư Phật sẽ khai mở, chỉ bày để chúng sinh “giữ gìn” làm tỏ ngộ và thâm nhập cái Tri Kiến Phật cho những đời vị lai. Đến đoạn này đến lượt các vị A la hán trong hàng Thanh Văn sau khi được Phật thọ ký thì cũng phát những hạnh nguyện to lớn như hàng Bồ Tát. Sau đó những bậc hữu họcvô học sau khi được Phật thọ ký cũng hân hoan phát lời thệ nguyện rộng lớn là giữ gìntruyền bá kinh Pháp Hoa để giúp chúng sinh “Chư ác mạc tác” “Chứng thiện phụng hành” và sau cùng đạt đến cứu cánh là “Tự tịnh kỳ ý”. Có thanh lọc thân khẩu ý thì con người mới thực sự quay về sống với chơn tánh của mình tức là “trì” cái Tri Kiến Phật của chính mình. Nhưng ở đây các vị A la hán, các vị trong hàng hữu họcvô học chỉ xin được truyền bá kinh Pháp Hoa ở những thế giới ít ô trược chớ không dám ở thế giới Ta Bà này vì các ngài chưa đủ bản lãnh. Ngày nay, học giả thì nhiều, lý luận rất hay nhưng hành giả có rất ít bởi vì con người nghiêng về lý thuyết nhiều hơn cho nên tốn công rất nhiều mà kết quả thật sự chẳng có bao nhiêu. Lý luận thì cao siêu lên vút tận trời xanh, nào là Bát Nhã, nào là Tánh Không, nào là Duy Thức, nhưng cái căn bảndưới đất lại quên đi cho nên nói thì hay mà tánh tham không bỏ, tật đố không chừa, không lìa tranh chấp thì chính mình chẳng được lợi ích gì chỉ là lý thuyết suông. Con người sống trong thế giới Ta Bànghiệp chướng sâu dày, che dấu tội lỗi, ôm ấp lòng tăng thượng mạn, công đức chẳng có bao nhiêu, tà tâm nịnh hót, không sống bằng trực tâm chân chính cho nên nếu không phải là Đại Dược Vương hay Đại Nhạo Thuyết thì không cách nào trị nổi những căn bệnh hiểm nghèo này. Biết mình trị không nổi nên các vị A la hán và biết bao hàng hữu họcvô học khác xin đi truyền bá kinh Pháp Hoa ở những thế giớicon người bệnh nhẹ hơn, tâm tánh dễ thuần thục hơn.

Thế giới Ta Bà chỉ dành cho hai vị Bồ Tát Dược Vương, là vua của các vị thầy thuốc nên biết rõ thân và tâm bệnh của chúng sinh mà giúp họ hóa giải và Đại Nhạo Thuyết, là người có tứ vô ngại biện tài nên mới dám lãnh trách nhiệm truyền bá kinh Pháp Hoa vì hai vị có đầy đủ bản lãnh, khả năng giáo hóa chúng sinh và diễn nói chánh pháp đúng theo ý kinh mà không rơi vào mê tín, không đưa đại chúng sống trong ảo tưởng hoang đường. Chúng sinh có rất nhiều tâm bệnh như bệnh chấp ngã, chấp pháp, bệnh tham sân si, bệnh lục dục thất tình và từ đó nó biến dạng ra không biết bao nhiêu thứ bệnh khác. Vì thế chỉ có Bồ Tát Dược Vương mới thấu biết rốt ráo tâm bệnh của chúng sinh và nhờ tài biện thuyết vô ngại của Đại Nhạo Thuyết Bồ Tát giảng giải thâm ý kinh Pháp Hoa cho đại chúng tỏ ngộ và thâm nhập Tri Kiến Phật của chính mình.

Sau cùng đoạn kinh sau thì các vị Tỳ kheo Ni sẽ phát nguyện cùng gánh vác trọng trách giữ gìn kinh Pháp Hoa được trường tồn mãi mãi trong thế gian.

Lúc bấy giờ bà Dì của Phật là Tỳ kheo ni Ma-ha-ba-xà-ba-đề cùng với 6.000 Tỳ kheo ni của hai hạng hữu họcvô học, đổng đứng dậy, chấp tay chiêm ngưỡng tôn nhan Phật, mắt không tạm rời. Thế Tôn mới hỏi:

-Kiều-đàm-di! Vì cớ nào mà ngó Như Lai với vẻ lo âu như vậy? Phải chăng vì ta không kêu tên thọ ký cho các bà? Này Kiều-đàm-di, ta trước thọ ký tổng quát cho tất cả Thanh-Văn, nay bà đã muốn thì ta nói trước cho biết, đời sau, bà sẽ làm Đại Pháp Sư của 68.000 Phật pháp còn 6.000 Tỳ kheo ni trong hàng hữu họcvô học, cũng sẽ làm Pháp SưLần hồi ngươi sẽ đầy đủ đạo Bồ tát và sẽ được thành Phật, hiệu Nhất-thiết-chúng-sanh-hỉ-kiến Như Lai. Này bà Kiều-đàm-di, Phật Hỉ Kiến và 6.000 Bồ tát sẽ tuần tự thọ ký được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Bấy giờ, mẹ của La-hầu-la là Tỳ-kheo-ni Gia-du-đà-la thầm nghĩ:

- Thế Tôn thọ ký cho mọi người sao riêng mình chẳng nói tới tên? Phật kêu Gia-du-đà-la nói:

-Đời sau, trong năm ngàn vạn ức pháp môn của Phật, bà sẽ tu hạnh Bồ-tát, làm Đại Pháp Sư, lần hồi đầy đủ Phật đạo, rồi ở nơi nước Thiện, sẽ thành Phật hiệu Cụ-túc-thiên-vạn-quang-tướng Như Lai.

Kiều-đàm-di, Gia-du-đà-la và tất cả Tỳ kheo ni đều vui mừng hớn hở, cho là được của quí giá chưa từng có.

Sau khi Phật thọ ký cho tất cả Tỳ kheo thì hiện tượng Long nữ mới vừa tám tuổi tức thì được thành Phật làm cho tất cả các vị Tỳ kheo Ni bàng hoàng xúc động. Các bà nghĩ rằng một đứa bé gái mang thân rồng mà còn thành Phật thì không lẽ chúng ta đã xã thân quyết chí tu hành mà không thể thành được chăng? Hiểu được tâm trạng của các bà nên đức Phật bây giờ chính thức thọ ký cho Dì Mẫu, Tỳ kheo Ni Gia Du Đà La và 6.000 Tỳ kheo Ni trong hàng hữu họcvô học sẽ thành Phật. Nói thành Phật, nhưng đâu phải thành Phật ngay như nàng Long nữ mà phải trải qua vô lượng kiếp tu hành, đầy đủ công hạnh Bồ Tát, trí tuệ vẹn tròn thì lúc đó mới thành Phật. Một lần nữa, thọ ký phải được hiểu như là một lời khích lệ từ đức Thế Tôn để khuyến khích chúng sinh cố gắng hóa giải cho hết những vẫn đục trong tâm thức của mình chớ thật ra Phật không cho chúng sinh cái gì cả. Tri Kiến Phật vốn đã có sẵn trong mỗi chúng sinh chớ cái Phật tánh này không do Phật ban cho vì thế Phật biết trong mỗi chúng sinh đã có sẵn cái mầm Phật tánh nên Ngài mới thọ ký tức là khuyến khích cho họ cố gắng nhận biết để tỏ ngộ và sau cùng thâm nhập cái Phật tánh thiêng liêng huyền diệu của chính mình đó thôi.

Nói rộng ra, chúng ta đang sống rải rác khắp nơi trên thế giới cho nên không nhất thiết chỉ có người quy y đạo Phật mới có Tri Kiến Phật mà ngay cả những ông Tây, bà Đầm, mắt xanh mũi lỏ, không nói được tiếng Việt thậm chí không biết một tý gì về Phật giáo thì những người này cũng đều có Tri Kiến Phật giống như chúng tadĩ nhiên họ có thể thành Phật giống như mọi người. Đây là tinh thần bình đẳng khách quan mà chỉ Phật giáo mới có. Từ đó con người mới nhìn thấu suốt ra ngoài mà thấy được tính bình đẳng của tất cả sự vật hiện tượngthành tựu Bình Đẳng Tánh Trí. Thế thì Tri Kiến PhậtPhật nhân mà muốn thành tựu Phật quả thì chúng sinh phải hóa giải cho hết Kiến Hoặc, Tư Hoặc, Vô Minh HoặcTrần Sa Hoặc. Con đường thành tựu Phật đạo còn dài cho nên đoạn kinh trên nói rằng “lần hồi” nghĩa là từ từ hóa giải từng phiền não vô minh cho đến khi tâm hoàn toàn trong sáng thì sẽ thành Phật chớ không thể đốt giai đoạn được. Nhắc lại Tổ Bồ Đề Đạt Ma nói rằng “Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật” là quay về để biết cái tâm thật của mình tức là phần đầu của kinh Lăng nghiêm khi Phật hỏi 7 lần về nơi thường trụ của tâm và sau đó thấy tánh thì thành Phật. Thấy tánh là phần sau của kinh Lăng Nghiêm nghĩa là chúng sinh phải biết thấu suốt tánh thấy, tánh nghe…của mình để đừng chạy theo khách trần phiền não. Nhưng cho dù có thấy tánh thì đây chỉ là Phật nhân chứ không thể thành Phật ngay được bởi vì trong ta tập khí ngã mạn, gốc tham sân si chưa nhổ sạch nên cần phải huân tu để hóa giải chúng. Khi nào diệt hết Kiến Hoặc, Tư HoặcVô Minh Hoặc thì lúc đó mới thành Phật quả. 

Sau khi đọc một bài kệ, các Tỳ-kheo-ni bạch Phật: Thế Tôn, chúng con có thể rộng nói kinh nầy ở các nước phương khác không?

Phật bèn ngó 80.000 muôn vạn ức na-do-tha Bồ-tát. Các Bồ-tát này toàn là bậc bất-thối-chuyển và đã được các “ tổng trì”, bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Phật, chấp tay nghĩ nói trong lòng rằng:

-Nếu Thế Tôn dạy, chúng con sẽ như lời Phật mà rộng nói kinh nầy. 

Rồi lại nghĩ:

-Phật nay làm thinh không dạy, bây giờ chúng ta sẽ nói gì đây?

Khi ấy, vừa để thuận theo ý Phật, vừa để thoả mãn sở nguyện của mình, các Bồ-tát bèn thề lớn trước Phật:

-Thế Tôn, sau Như Lai diệt độ, chúng con sẽ đi khắp mười phương thế giới, khiến chúng sanh biên chép kinh này, lãnh giữ, đọc tụng, giải nói ý nghĩa, theo pháp tu hành, sửa điều nghĩ nhớ cho chân chánh được như thế là toàn nhờ uy lực của Phật. Cúi xin Thế Tôn ở phương khác, xa thấy mà hộ trì cho!

Đến khi các vị Tỳ kheo Ni được Phật thọ ký bèn cùng với hàng Bồ Tát bất thối chuyển phát nguyện được đem kinh Pháp Hoa đến những thế giới khác trong vũ trụ để hoằng pháp lợi sanh vì tất cả không đủ bản lãnh để giáo hóa chúng sinh trong thế giới Ta Bà. Duy chỉ có Bồ Tát Dược Vương và Đại Nhạo Thuyết là nguyện vào thế giới Ta Bà để giảng giải truyền bá kinh Pháp Hoa vì các ngài có đầy đủ trí lực để giáo hóa những chúng sinh can cường che đậy điều ác, ôm lòng tăng thượng mạn, sống trong hận thù, tranh chấp.

Đến đây Phật đã thọ ký cho tất cả mọi người, từ các bậc đại trí, các vị Tỳ kheo hữu họcvô học đến các vị Tỳ kheo Ni hữu họcvô học và cho tất cả đại chúng. Mọi người rất hoan hỷ và tin rằng một ngày nào đó khi công thành đức mãn thì chính mình sẽ thành Phật.

Tóm lại, nếu đứng về phương diện tích cực thì thọ trì kinh Pháp Hoatruyền bá, giảng nói, biên chép, xiễn dương cho tất cả mọi người cùng thể nhập Tri Kiến Phật. Còn dựa theo khía cạnh tiêu cực thì hành giả tiếp thu, áp dụng và sống theo giáo lý đó trong đời sống của měnh. Do đó nhận biết Tri Kiến PhậtChánh nhân Phật tánh tức là Phật nhân còn trì kinh Pháp HoaDuyên nhân Phật tánh nghĩa là phát triển làm cho hoa Tri Kiến nẩy nở nhanh chóng. Chúng sinh nhờ nghe kinh Pháp Hoacải thiện tâm ý khiến cho thân khẩu ý dần dần được thanh tịnh, giữ vững chánh niệm sống trong thiện pháp thì hoa sen trong họ dần dần nở rộ. Sau cùng Phật tánh hiển lộ rõ ràng, hoa sen bây giờ nở rộ thơm ngát thì gọi là Liễu nhân Phật tánh tức là thành Phật.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19734)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23988)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41240)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19719)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24030)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21754)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23328)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27517)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26583)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29337)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33228)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20213)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25799)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20943)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31351)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38608)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21464)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44296)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29850)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42246)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22151)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45800)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32141)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23985)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24412)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29299)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33944)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27705)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32174)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21093)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28877)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21617)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28110)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22091)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21458)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19535)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19491)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19849)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19280)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29224)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20637)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28316)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23665)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33217)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31870)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21411)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39660)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21584)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19402)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26427)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24847)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21761)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22412)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29159)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22581)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20481)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23554)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21250)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35360)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24565)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant