Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 22: Quán Về Như Lai

02 Tháng Tám 201000:00(Xem: 6942)
Phẩm 22: Quán Về Như Lai

TRUNG LUẬN 
(MADHYAMAKA SASTRA)
Tác giả: Nagaruna
Dịch và chú giải: HT Thích Thiện Siêu
Nhà xuất bản: TP. Hồ Chí Minh 2001

PHẨM XXII: QUÁN VỀ NHƯ LAI.

(Gồm 16 bài kệ)


Hỏi: Các bậc tôn quí trong thế gian chỉ có đức Như Lai Chánh Biến Tri có hiệu là Pháp vương, bậc Nhất thiết trí; thế là thật có Như Lai ?

Đáp: Nay hãy suy nghĩ kỷ nếu thật có thời nên chấp thủ, nếu không thật có thời chấp thủ gì, vì sao? Vì Như Lai là:

1. Như Lai chẳng phải tức năm uẩn, chẳng phải lìa năm uẩn, Như Lai không ở trong năm uẩn, năm uẩn không ở trong Như Lai, Như Lai không có năm uẩn. Vậy chỗ nào có Như Lai.

Nếu Như Lai thật có, thì chính năm uẩnNhư Lai, hay lìa năm uẩnNhư Lai; hay trong Như Lainăm uẩn, trong năm uẩnNhư Lai; hay Như Lainăm uẩn ? Hết thảy đều không đúng.

Năm uẩn chẳng phải là Như Lai, vì sao ? Vì năm uẩn có tướng sinh diệt, nếu Như Lainăm uẩn, tức Như Lai là tướng sinh diệt, nếu có tướng sinh diệt tức Như Lai có bị lỗi là vô thường đoạn diệt. Lại người chấp thọNhư Lai, pháp chấp thọ là năm uẩn, nếu người chấp thọpháp chấp thọ là một là không đúng. Thế nên Như Lai chẳng phải là năm uẩn.

Lìa năm uẩn cũng không có Như Lai, vì nếu lìa năm uẩnNhư Lai, thời Như Lai không có tướng sinh diệt. Nếu như vậy, Như Lai có cái lỗi là thường còn. Lại nếu Như Lai thường còn, thời Như Lai không thể dùng các căn mắt, tai v.v… để thấy biết, nhưng việc ấy không đúng, (vì Như Lai vẫn có thấy biết). Thế nên biết lìa năm uẩn cũng không có Như Lai (nếu Như Lai thường như hư không thời không có sự thấy biết).

Lại trong Như Lai cũng không có năm uẩn, vì nếu trong Như Lainăm uẩn thời như trong đồ đựng có hoa trái, trong nước có cá, thế thời Như Lainăm uẩn khác nhau. Nếu khác nhau thời mắc phải lỗi Như Lai thường như trên. Thế nên biết trong Như Lai không có năm uẩn.

Lại trong năm uẩn cũng không có Như Lai, vì nếu trong năm uẩnNhư Lai thời như trên giường có người, trong đồ đựng có sữa. Có khác như vậy, nên cũng mắc phải lỗi như trên. Thế nên biết trong năm uẩn không có Như Lai.

Lại Như Lai cũng không có năm uẩn, vì nếu Như Lainăm uẩn như người có con; như vậy Như Lainăm uẩn khác nhau, nếu như vậy thì mắc phải lỗi như trên. Thế nên biết Như Lai không có năm uẩn.

Như vậy theo năm cách ấy tìm Như Lai không thể có được, vậy thế nào là Như Lai.

Hỏi: Theo năm cách tìm Như Lai không thể có được như vậy, nhưng năm uẩn hòa hiệp là có Như Lai ?

Đáp:

2. Nhân năm uẩn hòa hợpNhư Lai. Vậy Như Lai không có tự tính; nếu khôngtự tính, thời làm sao nhân nơi tha tính mà có được.

Nếu Như Lai do năm uẩn hòa hiệp mà có, tức là Như Lai không có tự tính, vì sao ? Vì nhân năm uẩn hòa hiệp mà có.

Hỏi: Như Lai không do tự tính mà có, chỉ nên do nơi tha tính mà có ?

Đáp: Nếu khôngtự tính, thời làm sao nhân tha tính mà có. Vì tha tính cũng không có tự tính. Lại vì không nhân nơi đối đãi nhau, nên tha tính cũng không có. Vì không có nên không gọi là tha.

Lại nữa,

3. Nếu pháp nhân tha tính mà sinh khởi, tức là chẳng phải có tự ngã, nếu pháp chẳng phải tự ngã, thời làm sao gọi đó là Như Lai.

Nếu pháp do các duyên sinh, tức không có tự ngã, như do năm ngón mà có nắm tay, nắm tay ấy không có tự thể. Như vậy do năm uẩn hòa hiệp gọi là ngã, ngã ấy không có tự thể. Ngã có nhiều tên gọi, hoặc gọi chúng sinh, trời, người, Như Lai v.v… nếu Như Lai do năm uẩn hòa hiệp mà có, tức Như Lai không có tự tính, không có tự tính nên không có ngã, nếu không có ngã làm sao nói có Như Lai. Thế nên trong bài kệ nói: “Nếu pháp do cái khác sinh ra, tức chẳng có ngã; nếu pháp chẳng có ngã, làm sao nói Như Lai”

Lại nữa,

4. Nếu khôngtự tính, thời làm sao có tha tính, lìa tự tính và tha tính, thời làm sao gọi là Như Lai.

Nếu khôngtự tính, thời tha tính cũng chẳng thể có. Vì nhân tự tính nên gọi là tha tính, cái này không có nên cái kia không có. Thế nên tự tính tha tính đều không có. Nếu lìa tự tính tha tính, thời gì là Như Lai.

Lại nữa,

5. Nếu không nhân nơi năm uẩn, trước đã có Như Lai, do nay chấp thọ năm uẩn, nên gọi đó là Như Lai.

6. Nay thật sự khi không chấp thọ năm uẩn, thời không có pháp Như Lai. Nếu vì không chấp thọ năm uẩn nên không có Như Lai, thời nay làm sao chấp thọ.

7. Nếu khi Như Lai chưa có chấp thọ năm uẩn, thời năm uẩn bị chấp thọ ấy không gọi là chấp thọ, không thể có thứ pháp không chấp thọ mà gọi là Như Lai.

8. Nếu tìm Như Lai trong nhất thể dị thể không thể có được, theo năm cách tìm trong năm uẩn cũng không có, vậy làm sao lại có trong chấp thọ.

9. Lại năm uẩn bị chấp thọ không từ tự tính nó có, nếu khôngtự tính, thời làm sao có tha tính.

Nếu nói khi chưa chấp thọ năm uẩn trước đã có Như Lai, Như Lai ấy nay chấp thọ năm uẩn rồi, là thành Như Lai, nhưng kỳ thật khi chưa chấp thọ năm uẩn, trước đây không có Như Lai, thời làm sao bây giờ, chấp thọ năm uẩn lại có Như Lai. Lại không người chấp thọ năm uẩn, thời năm uẩn không gọi là pháp chấp thọ; không thể có thứ pháp không chấp thọ mà gọi là Như Lai. Lại tìm Như Lai trong tự tính tha tính và theo năm cách tìm Như Lai trong năm uẩn đều không thể có được. Nếu như vậy làm sao nói trong năm uẩnNhư Lai được; lại năm uẩn bị chấp thọ không từ tha tính mà có. Nếu bảo từ tha tính mà có, nhưng nếu không từ tự tính mà có, thời làm sao từ tha tính mà có được, vì sao? Vì không có tự tính nên tha tính cũng không.

Lại nữa,

10. Do các nghĩa như vậy, pháp chấp thọ không, người chấp thọ không, làm sao lấy "không" mà nói rằng "không" là Như Lai.

Theo nghĩa đó suy nghĩ, pháp năm uẩn bị chấp thọNhư Lai là người chấp thọ đều không, nếu người chấp thọ không, làm sao lấy năm uẩn chấp thọ không ấy, mà gọi "không" là Như Lai (trái với trên kia chấp "có" là Như Lai).

Hỏi: Luận chủ bảo “pháp chấp thọ tính không, người chấp thọ tính không”, vậy thời nhất định có cái không ấy ư ?

Đáp: Không đúng, vì sao ?

11. Pháp “Không” (không có tự tính) thời không thể nói, pháp phi không cũng không thể có được, cũng không cũng phi không và chẳng phải không chẳng phải phi không, đều không thể nói, nên chỉ theo giả danh mà nói thôi.

Các pháp không thời không thể nói, các pháp chẳng không cũng không thể nói, các pháp không và chẳng không cũng không thể nói, các pháp chẳng phải không chẳng phải bất không cũng không thể nói, vì sao ? Vì chỉ để phá sự trái ngược nhau nên giả danh mà nói. Suy nghĩ chánh quán như vậy thời biết đối với thật tướng các pháp, không thể dùng các vấn nạn để nạn vấn.

Vì sao ?

12. Trong tướng tịch diệt không có bốn tướng: thường, vô thường, cũng thường cũng vô thường, chẳng phải thường chẳng phải vô thường. Trong tướng tịch diệt không có bốn tướng ; là biên, vô biên, cũng biên cũng vô biên, chẳng phải biên chẳng phải vô biên.

Thật tướng các pháp là vi diệu tịch diệt, chỉ do đối với đời quá khứ, khởi lên bốn thứ tà kiến, cho rằng thế gian thường, thế gian vô thường, thế gian nữa thường nữa vô thường, thế gian chẳng phải thường chẳng phải vô thường, chứ trong thật tướng tịch diệt không có việc ấy, vì sao ? Vì thật tướng các pháp là rốt ráo thanh tịnh không thể chấp thủ. Đối với pháp không còn không chấp thủ, huống gì có bốn tà kiến, bốn thứ tà kiến đều nhân nơi chấp thọ mà sinh, thật tướng các pháp không có chỗ chấp thọ. Bốn thứ tà kiến đều cho quan điểm mình là quí, quan điểm người khác là hèn, còn thật tướng các pháp không có kia đây. Thế nên trong tướng tịch diệt, không có bốn tà kiến.

Như đối với đời quá khứ khởi bốn tà kiến, đối với đời vị lai khởi bốn tà kiến cũng như vậy, nào là thế gian hữu biên, thế gian vô biên, thế gian vừa hữu biên vừa vô biên, thế gian chẳng phải hữu biên chẳng phải vô biên.

Hỏi: Nếu phá Như Lai như vậy, thời không có Như Lai ư ?

Đáp:

13. Người tà kiến sâu dày, thời nói không có Như Lai, Như Lai tướng tịch diệt, phân biệt nói có cũng sai.

Tà kiến có hai thứ: 1. Là phá cái vui thế gian, 2. Là phá đạo Niết-bàn. Phá cái vui thế giantà kiến thô, nói rằng không có tội phước, không có quả báo tội phước, không có Thánh Hiền, Như Lai; khởi lên tà kiến ấy bỏ lành làm ác, đó là phá cái vui thế gian. Phá đạo Niết-bàn là tham đắm ngã, phân biệt có không, khởi tâm làm thiện diệt ác, làm thiện nên được cái vui thế gian, phân biệt có không nên không được Niết-bàn. Thế nên nếu nói không có Như Lai, đó là tà kiến sâu dày, cái vui thế gian còn mất, huống gì Niết-bàn. Nếu nói có Như Lai cũng là tà kiến, vì sao ? Vì Như Lai tướng tịch diệt, mà lại phân biệt ra đủ thứ có, không, thường, đoạn v.v… thế nên ở trong tướng tịch diệt, mà phân biệtNhư Lai, cũng là tà kiến.

14. Đối với tính không như vậy, tư duy cũng không thể được. Sau khi Như Lai diệt độ, mới phân biệt nói có, nói không.

Thật tướng các pháp là tính không, nên không nên đối với Như Lai sau khi diệt độsuy nghĩ phân biệt hoặc có, hoặc không, hoặc cũng có cũng không, chẳng phải có chẳng phải không. Như Lai từ trước lại đây rốt ráo không, huống gì sau khi diệt độ.

15. Như Lai siêu việt hý luận, mà người đời cứ sinh hý luận, hý luận phá mắt tuệ, thế nên không thấy Phật.

Hý luận là ức tưởng chấp thủ tướng, phân biệt kia đây, nói rằng Phật diệt độ, không diệt độ v.v… người ấy vì bị hý luận che khuất mắt tuệ, nên không thấy pháp thân Như Lai. Trong phẩm Như Lai này, ở đầu phẩm, giữa phẩm, cuối phẩm, tư duy tìm định tính Như Lai, không thể có được.

Thế nên kệ nói:

16. Tính sở hữu của Như Lai là tính sở hữu của thế gian. Như Lai không có tự tính, nên thế gian cũng không có tự tính.

Trong phẩm này, suy lường tìm kiếm thấy tính Như Lai tức là tính hết thảy thế gian.

Hỏi: Thế nào là định tính Như Lai ?

Đáp: Như Lai không có tự tính, như thế gian không có tự tính.

*

Tóm tắt phẩm XXII: Quán về Như Lai.

Phẩm quán Như Lai và phẩm Quán Điên đảo, phẩm Quán Tứ đế, phẩm Quán Niết-bàn tiếp sau có liên hệ với nhau. Như Lai là người có khả năng phá điên đảo, có khả năng chánh quán Tứ đế, có khả năng chứng đắc Niết-bàn, còn điên đảopháp bị phá, Tứ đế là pháp được chính quán tu tập, Niết-bàn là pháp được chứng đắc. Như Lai (Tathagata) theo Trí độ luận có nghĩa là “như pháp tướng mà diễn nói, như pháp tướng mà ngộ giải, như pháp tướng mà đi đến”. Thật tính Như Lai cũng là thật tính của các pháp, là pháp không tính, không có tướng hý luận, tùy duyên hiện khởi nên có thể nói có Như Lai đản sinh, Như Lai xuất gia, đắc đạo, thuyết pháp. Song các ngoại đạo và những người khác không hiểu như vậy, trái lại theo ngoại đạo xem Như Lai cũng như thần ngã, Hữu bộ xem Như Lai chỉ là giả ngã do năm uẩn hòa hợp, Độc tử bộ thì xem Như Lai bất khả thuyết ngã, tất cả kiến chấp ấy, đều sai lầm, nên phẩm này xét phá.

Phẩm này có: 1. Quán riêng về người chấp thọ năm uẩnNhư Lai tính không (kệ 1 đến kệ 8). 2. Xét riêng về pháp chấp thọ là năm uẩn tính không (kệ 9,10). 3. Thế đế giả danh (kệ 11). 4. Thắng nghĩa đế không thể nghĩ bàn (kệ 12 đến kệ 16).

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12504)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10392)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12352)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11655)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28814)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12057)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13016)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11451)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12383)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17449)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53070)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35495)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21408)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10680)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19245)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12410)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26052)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13322)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14388)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16094)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13733)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16854)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17594)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13137)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12540)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11614)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11623)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14514)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20490)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18998)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19585)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18663)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12191)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12326)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13867)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15036)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15042)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13998)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15530)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11405)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17201)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14985)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20215)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14629)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13856)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11715)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15070)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13000)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22893)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14562)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11665)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13175)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16892)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18353)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11951)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11508)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15859)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12893)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18926)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18431)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant