Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quyển Thứ 8

06 Tháng Giêng 201508:49(Xem: 9705)
Quyển Thứ 8

QUYỂN THỨ TÁM

 

CHƯƠNG THỨ MƯỜI BẢY

LỄ PHẬT THẾ A TU LA VÀ HẾT THẢY THIỆN THẦN 

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại chí thành đảnh lễ Tam bảo, năm vóc sát đất, nguyện xin thay thế hết thảy A tu la vương, hết thảy A tu laquyến thuộc caủ A tu la khắp mười phương tận hư không giới, lại nguyện vì hết thảy các vị thông minh, chánh trực, thiên địa hư không, chư thiện, phạt ác, thủ hộ, trì chú, bát bộ thần vương, bát bộ thần tướng, rộng ra cho đến, hoặc trong hoặc ngoài, hoặc xa hoặc gần, đông tây nam bắc, tứ duy thượng hạ, cùng khắp pháp giới, các vị có sức đại thần thông, có sức đại oai đức như vậy, chúng con nguyện thay thế cho tất cả các vị ấy mà quy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Bảo Danh Phật

Nam mô Chúng Thanh Tịnh Phật

Nam mô Vô Biên Danh Phật

Nam mô Bất Hư Quang Phật

Nam mô Thánh Thiên Phật

Nam mô Trí Vương Phật

Nam mô Kim Cang Chúng Phật

Nam mô Thiện Chướng Phật

Nam mô Kiến Từ Phật

Nam mô Hoa Quốc Phật

Nam mô Pháp Ý Phật

Nam mô Phong Hành Phật

Nam mô Thiện Tư Danh Phật

Nam mô Đa Minh Phật

Nam mô Mật Chúng Phật

Nam mô Công Đức Thủ Phật

Nam mô Lợi Ý Phật

Nam mô Vô Cụ Phật

Nam mô Kiên Quán Phật

Nam mô Trú Pháp Phật

Nam mô Châu Túc Phật

Nam mô Giải Thoát Đức Phật

Nam mô Diệu Thân Phật

Nam mô Thiện Ý Phật

Nam mô Phổ Đức Phật

Nam mô Quang Vương Phật

Nam mô Vô Biên Thân Phật

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, đồng gia tâm ủng hộ che chở, nguyện A tu la vương, hết thảy A tu laquyến thuộc của A tu la. Lại xin nguyện cho các vị thông minh chánh trực, thiện địa hư không, chủ thiện phạt ác, thủ hộ trì chú, bát bộ thần vương, bát bộ thần tướng và quyến thuộc của các vị ấy, thoát được khách trần phiền não, thanh tịnh được các chuyện chướng, phát tâm đại thừa tu đạo vô ngại, tứ vô lượng tâm, lục ba la mật thường được hiện tiền, tứ vô ngại biện, sáu thức thần thông đều được như ý muốn, hằng đem từ bi cứu độ chúng sanh, tu đạo Bồ tát, vào trí huệ Phật, chứng tâm kim cang thành bậc Chánh giác.

 

CHƯƠNG THỨ MƯỜI CHÍN

LỄ PHẬT THẾ MA VƯƠNG 

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại chí thành đảnh lễ, năm vóc sát đất, nguyện vì đại ma vương, ngũ đế đại ma, cho đến đông tây nam bắc, tứ duy thượng hạ, tận hư không giới, hết thảy ma vươngbà con của ma mà quy y kính lễ . . .  Nhất thế thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Phạm Mâu Ni Phật

Nam mô An Tường Hạnh Phật

Nam mô Cần Tinh Tấn Phật

Nam mô Diệm Kiện Phật

Nam mô Đại Oai Đức Phật

Nam mô Chiêm Bặc Hoa Phật

Nam mô Hoan Hỷ Phật

Nam mô Thiện Chúng Phật

Nam mô Đế Tràng Phật

Nam mô Đại Ái Phật

Nam mô Tu Mạn Sắc Phật

Nam mô Chúng Diệu Phật

Nam mô Khả Lạc Phật

Nam mô Thiện Định Nghĩa Phật

Nam mô Ngưu Vương Phật

Nam mô Diệu Tý Phật

Nam mô Đại Xa Phật

Nam mô Mãn Nguyện Phật

Nam mô Đức Quang Phật

Nam mô Bảo Âm Phật

Nam mô Kim Cang Quân Phật

Nam mô Phú Quý Phật

Nam mô Thế Lực Hạnh Phật

Nam mô Sư Tử Lực Phật

Nam mô Tịnh Mục Phật

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, đồng gia tâm che chở, nguyện cho đại ma vương, ngũ đế đại ma, hết thảy ma vươngquyến thuộc của ma, từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, bao nhiêu chướng duyên thảy đều thanh tịnh, bao nhiêu tội nghiệp thảy đều tiêu trừ, tất cả khổ não đều được giải thoát, bốn vô lượng tâm, sáu ba la mật thường được hiện tiền, bốn vô ngại trí, sáu sức thần thông, như ý tự tại, tu đạo Bồ tát không thôi không nghỉ, trước độ chúng sanh sau thành Phật đạo. 

 

CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI

LỄ PHẬT THẾ CHO NHƠN ĐẠO, QUỐC VƯƠNG V.V... 

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đã cùng nhau nguyện vì chư Thiên, chư Tiên Long thần bát bộlễ Phật rồi.

Nay đây nguyện vì nhơn đạo, hết thảy nhơn vương, lễ Phậtbáo ơn nhơn loại.

Lại nguyện cha mẹ, Sư trưởng và hết thảy nhơn dân mà lễ Phật. Vì sao vậy?

nếu không có quốc chủ thì hết thảy  chúng sanh không biết nương nhờ vào đâu. Nhờ có quốc chủ nên tất cả mọi người đều an cư lạc nghiệp; đi lại trên đất quốc chủ, sống trên đất quốc chủ, và được nhiều lợi ích khác không thể kể xiết; cho nên Đại chúng phải có lòng biết ơnbáo ơn.

Kinh dạy rằng:

Nếu người nào, ngày đêm sáu thời hay chịu khổ, vì muốn lợi ích nên nguyện báo ơn, thì phải phát tâm nghĩ như thế ấy để tu tập hạnh từ bi.

Do nguyện lực ấy, nên nghĩ báo ơn che chở của quốc chủ, nghĩ báo ơn cung cấp của thí chủ, nghĩ báo ơn sinh thành của cha mẹ; nghĩ báo ơn dạy bảo của Sư trưởng, nghĩ báo ơn tế độ của chư Phật.

Nếu người nào hay chí tâm thường niệm tưởng như vậy, người ấy nhập đạo rất mau.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nhận thấy ơn lành của chư Phật, Đại thánh khai hóa dụ dỗ chúng ta, ân cần như thế, khiến chúng ta phải biết báo ơn.

Ngày nay chúng ta sanh vào đời mạt pháp, mong nhờ ơn quốc chủ mà hưng hiển được Phật pháp; nhờ quốc chủ cúng dường đày đủ, không tiếc của báu, làm cho khắp cả nhơn dân đều noi gương quốc chủ và sanh tâm quy kính Phật Pháp Tăng.

Lại nữa người xuất gia được an tâm hành đạo, đi đứng nằm ngồi được tự do, không bị trở ngại; quốc chủ không cho người xuất gia tham dự việc đời; chỉ lo khuyên người làm lành, nguyện cho chúng sanh mau thoát khỏi sanh tử khổ đau; chỉ lo xiển dương vô lượng Pháp môn, chỉ bày đường chơn nẻo chánh cho trời và người. Nhờ ơn quốc chủ nhiều như vậy thì chúng ta đâu được không hết lòng lễ Phật để báo ơn quốc chủ, phải cùng nhau chí thành đảnh lễ nguyện vì quốc chủ mà quy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Ca Diếp Phật

Nam mô Tịnh Ý Phật

Nam mô Tri Thức Đệ Phật

Nam mô Mãnh Oai Đức Phật

Nam mô Đại Quang Minh Phật

Nam mô Phật Quang Diệu Phật

Nam mô Tịnh Tạng Phật

Nam mô Phân Biệt Oai Phật

Nam mô Vô Tổn Phật

Nam mô Mật Nhật Phật

Nam mô Nguyệt Quang Phật

Nam mô Trì Minh Phật

Nam mô Thiện Tịch Hạnh Phật

Nam mô Bất Động Phật

Nam mô Đại Thỉnh Phật

Nam mô Đức Pháp Phật

Nam mô Trang Nghiêm Vương Phật

Nam mô Cao Xuất Phật

Nam mô Diệm Xí Phật

Nam mô Hoa Đức Phật

Nam mô Bảo Nghiêm Phật

Nam mô Thượng Thiện Phật

Nam mô Bảo Thượng Phật

Nam mô Lợi Huệ Phật

Nam mô Nghiêm Độ Phật

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, gia tâm nhiếp thọ nguyện cho quốc chủ hiện tại thân thể khương kiện, oai đức vang lừng sự nghiệp vĩnh viễn, huệ mạng vô cùng, từ tâm vô tận, hữu tình quy tâm, Bồ tát thạnh hóa, trời người ngợi khen, ngưỡng mộ. Tứ đẳng lục độ, ngày càng thêm sáng, tứ vô ngại biện lạc thuyết vô cùng; được tâm tự tại, đủ sáu thần thông, tam muội tổng trì móng tâm liền có; từ bi thương đời, ân khắp lục đạo, vạn hạnh sớm viên, Phật đạo chóng thành.

 

CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI MỐT

LỄ PHẬT THẾ QUYẾN THUỘC CỦA QUỐC CHỦ 

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại đầu thành đảnh lễ Tam bảo, nguyện vì quyến thuộc của quốc chủ và bá quan cùng quyến thuộc của bá quan mà quy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật.

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật.

Nam mô Hải Đức Phật.

Nam mô Phạm Tướng Phật.

Nam mô Nguyệt Cái Phật.

Nam mô Da Diệm Phật.

Nam mô Vi Lam Vương Phật.

Nam mô Trí Xưng Phật.

Nam mô Giác Tưởng Phật.

Nam mô Công Đức Quang Phật.

Nam mô Thanh Lưu Bố Phật.

Nam mô Mãn Nguyện Phật.

Nam mô Hoa Quang Phật.

Nam mô Thiện Giới Phật.

Nam mô Đăng Vương Phật.

Nam mô Điện Quang Phật.

Nam mô Quang Vương Phật.

Nam mô Quang Minh Phật.

Nam mô Cụ Túc Tán Phật.

Nam mô Hoa Tạng Phật.

Nam mô Phất Sa Phật.

Nam mô Thân Đoan Nghiêm Phật.

Nam mô Tịnh Nghĩa Phật.

Nam mô Oai Mãnh Quân Phật.

Nam mô Phước Oai Đức Phật.

Nam mô Lực Hành Phật.

Nam mô La Hầu Thiên Phật.

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát.

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, đồng gia tâm phủ hộ, nguyện cho quyến thuộc của quốc chủ , bá quan và quyến thuộc của các vị ấy thân tâm an lạc, sống lâu vô cùng, tu đạo đại thừa, vào trí huệ Phật; giữ bốn hoằng thệ, không xả bỏ chúng sanh, tứ vô lượng tâm, lục ba la mật thường được hiện tiền; lục thông tám đạt, thấu rõ căn tánh đủ nhị trang nghiệm, thần lực tự tại, từ tâm như Phật nhiếp hóa chúng sanh.       

 

CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI HAI

LỄ PHẬT THẾ CHA MẸ 

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng kế lại nên nhớ nghĩ công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ; hoài thai bú mớm, ái trọng tình thâm, thà cha mẹ chịu nguy thân để con được yên ổn. Đến khi con khôn lớn, cha mẹ lại lo dạy bảo cho con biết nhơn biết lễ, hết lòng cầu thầy dạy bảo cho con học hành, nguyện cho con thông đạt nghĩa lý, thấy rộng hiểu sâu, luôn luôn mong muốn cho con theo kịp với người. Con muốm gì cha mẹ cũng cung cấp không tiếc gia bửu.

Ngày đêm lo âu, có khi vì con mà cha mẹ phải sanh bệnh khổ, ngủ không yên giấc. Khi con đi xa, cha mẹ càng trông tưởng.

Trong thiên hạ, ơn cha mẹ là nặng hơn hết.

Sở dĩ Phật dạy:

“Trong thiên hạ, không có ơn nào bằng ơn cha mẹ”

Than ôi! người xuất giatại tục chưa thể đắc đạo phải siêng lo tu học, làm lành không nghỉ, chứa đức không thôi, mới mong báo đáp ơn đức cù lao của cha mẹ.

Đại chúng cùng nhau chí thành đảnh lễ Tam bảo mỗi người tự mình nguyện vì từ khi có thần thức trở lại cho đến ngày nay, cha mẹ nhiều đời bà con nhiều kiếp và hết thảy quyến thuộcquy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật.

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật.

Nam mô Trí Tụ Phật.

Nam mô Điều Ngự Phật.

Nam mô Như Vương Phật.

Nam mô Hoa Tướng Phật.

Nam mô La Hầu La Phật.

Nam mô Đại Dược Phật.

Nam mô Túc Vương Phật.

Nam mô Dược Vương Phật.

Nam mô Đức Thủ Phật.

Nam mô Đắc Xoa Ca Phật.

Nam mô Lưu Bố Vương Phật.

Nam mô Phật Quang Phật.

Nam mô Pháp Tạng Phật.

Nam mô Diệu Ý Phật.

Nam mô Đức Chủ Phật.

Nam mô Kim Cang Chúng Phật.    

Nam mô Huệ Đảnh Phật.

Nam mô Thiện Chú Phật.

Nam mô Ý Hạnh Phật.

Nam mô Phạm Âm Phật.

Nam mô Sư Tử Phật.

Nam mô Lôi Âm Phật.

Nam mô Thông Tướng Phật.

Nam mô An Ổn Phật.

Nam mô Huệ Long Phật.

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát.

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, đồng gia tâm nhiếp thọ, nguyện cho cha mẹ bà con chúng con và quyến thuộc của cha mẹ bà con chúng con từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, hết thảy tội chướng đều được tiêu trừ, hết thảy thống khổ đều được giải thoát, kiết tập phiền não hằng được thanh tịnh, từ dài tứ thú, tự tại vãng sanh, thân cận chư Phật, được Phật thọ ký, tứ vô lượng tâm lục ba la mật thường được hiện tiền, tứ vô ngại biện, lục thần thông lực, tự tại như ý, được mười trí lực, tướng tốt nghiêm thân, đồng lên Đạo tràng, thành bậc Chánh giác.

 

CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI BA

LỄ PHẬT THẾ CHA MẸ CÁC ĐỜI TRƯỚC

 Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng hoặc có người cha mẹ mất sớm, không thể gặp lại, luống tưởng vậy thôi.

Khi chưa được thần thông thiên nhãn, không biết cha mẹ sau khi mất rồi thần hồn sanh về đâu?

Chỉ nên vội nhờ sức phước đức  truy niệm vói tưởng mà báo ơn; làm lành không nghỉ, lâu ngày thành công thì quyết được toại nguyện.

Kinh dạy rằng: “Vì vong nhơn mà làm phước cũng như gửi lương hướng cho người đi xa. Nếu người ấy đã sanh lên trời thì công đức của người ấy ngày càng lợi ích. Nếu người ấy đọa lạc tam đồ ác đạo, hoặc mắc phải tám nạn thì được vĩnh viễn xa lìa khổ não. Nếu các người ấy sanh ra gặp Phật, thọ lãnh chánh pháp thì liền được siêu thoát tỏ ngộ.

Cha mẹ bảy đời, bà con nhiều kiếp thì trừ hết những điều lo sợ, đồng được giải thoát. Đó là cách báo ơn tối tôn tối thượng, chí từ chí hiếu của người con trí thức vậy.

Ngày nay Đại chúng nên phải cùng nhau đau thương hoải niệm, áo não khóc lóc, nghẹn ngào, gieo mình xuống đất, nguyện vì cha mẹ nhiều đời, bà con nhiều kiếp mà quy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Phạm Vương Phật

Nam mô Ngưu Vương Phật

Nam mô Lợi Đà Mục Phật

Nam mô Long Đức Phật

Nam mô Thuật Tướng Phật

Nam mô Trang Nghiêm Phật

Nam mô Bất Một Âm Phật

Nam mô Hoa Đức Phật

Nam mô Âm Đức Phật

Nam mô Sư Tử Phật

Nam mô Trang Nghiêm Từ Phật

Nam mô Dõng Trí Phật

Nam mô Hoa Tích Phật

Nam mô Hoa Khai Phật

Nam mô Lực Hành Phật

Nam mô Đức Tích Phật

Nam mô Thượng Hình Sắc Phật

Nam mô Minh Diệu Phật

Nam mô Nguyệt Đăng Phật

Nam mô Oai Đức Vương Phật

Nam mô Bồ Đề Nhãn Phật

Nam mô Thân Sung Mãn Phật

Nam mô Huệ Quốc Phật

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, cứu vớt tiếp độ cha mẹbà con chúng con nhiều đời nhiều kiếp về quá khứ, từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật Đạo, hết thảy tội nhơn đều được tiêu trử, hết thảy khổ quả đều được sạch hết, phiền não kiết nghiệp hoàn toàn thanh tịnh, đoạn ba chướng duyên trừ năm bố úy, tu đạo Bồ tát rộng độ chúng sanh, bát giải tu tâm, tứ hoằng lợi vật, thân cận Như Lai, được Phật thọ ký, không rời khỏi chỗ, chứng quả vô sanh, tùy niệm tiêu diêu, dạo khắp cõi Phật, hạnh nguyện chóng thành, mau chứng Chánh giác.

 

CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI BỐN

LỄ PHẬT THẾ SƯ TRƯỞNG

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đã vì cha mẹbà conlễ Phật rồi. Thứ lại nên nghĩ đến ơn đức Sư trưởng. Vì sao vậy?

- Vì cha mẹ tuy có công sanh thành dưỡng dục chúng ta, nhưng không thể làm thế nào cho chúng ta mau xa lìa đường ác. Cho nên Sư trưởng đối với chúng taơn đức vô lượng Sư trưởng có lòng đại từ dìu dắt khuyên dỗ, hằng dạy chúng ta tu thiện muốn chúng ta ra khỏi biển sanh tử, đến bờ giải thoát bên kia. Mọi điều lợi ích đều khiến chúng ta thấy Phật, trừ hết phiền não kiết tập an trú vào đạo vô vi.

Ơn đức như vậy, ai hay báo đáp cho cùng tận. Dầu trọn đời tu hành đó chỉ là tự lợi chớ chưa phải báo đáp ơn Sư trưởng.

Sở dĩ Phật dạy:”Thiện tri thức trong thiên hạ, không ai hơn Sư trưởng, đã tự độ mình lại hay độ người”.

Chúng ta ngày nay được xuất gia thọ đại giới, hạnh phúc nầy là nhờ ơn Sư trưởng mà được. Như thế, mọi người há lại không lo đền đáp nhớ tưởng ơn thầy sao?

Vậy Đại chúng cùng nhau chí tâm một lòng tha thiết, năm vóc sát đất, nguyện vì Hòa thượng, A xà lê, đồng đàn tôn chứng thượng, trung, hạ tòa và quyến thuộc của các vị ấy mà quy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Tối Thượng Phật

Nam mô Thanh Tịnh Chiếu Phật

Nam mô Huệ Đức Phật

Nam mô Diệu Âm Thanh Phật

Nam mô Đạo Sư Phật

Nam mô Vô Ngại Tạng Phật

Nam mô Thượng Thí Phật

Nam mô Đại Tôn Phật

Nam mô Trí Thế Phật

Nam mô Đại Diệm Phật

Nam mô Đế Vương Phật

Nam mô Chế Lực Phật

Nan mô Oai Đức Phật

Nam mô Thiện Minh Phật

Nam mô Danh Văn Phật

Nam mô Đoan Nghiêm Phật

Nam mô Vô Trần Cấu Phật

Nam mô Oai Nghi Phật

Nam mô Sư Tử Quân Phật

Nam mô Thiên Vương Phật

Nam mô Danh Thanh Phật

Nam mô Thù Thắng Phật

Nam mô Đại Tạng Phật

Nam mô Phước Đức Quang Phật

Nam mô Phạm Văn Phật

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, đồng gia tâm nhiếp thọ, nguyện Hòa thượng, A xà lê, đồng đàn tôn chứng, thượng, trung, hạ tòa và các quyến thuộc của các vị ấy, từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, tất cả tội chướng đều được thanh tịnh, tất cả thống khổ đều được giải thoát, tất cả phiền não đều được đoạn trừ; tù ý sanh về tịnh độ của chư Phật, hạnh nnguyện Bồ tát đều được hoàn toàn, tài thí vô tận, pháp thí vô tận, phước đức vô tận, an lạc vô tận, thọ mạng vô tận, trí huệ vô tận, tứ vô lượng tâm, lục ba la mật thường được hiện tiền, tứ vô ngại trí, lục thần thông lực, tự tại như ý, vào định Lăng Nghiêm, được tâm kim cang, không bỏ thề xưa, trở lại đời nầy, hóa độ chúng sanh.    

 

CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI LĂM

LỄ PHẬT THẾ MƯỜI PHƯƠNG

 TỲ KHEOTỲ KHEO NI

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đã vì Hòa thượng A xà lê v.v... mà lệ Phật rồi, sau đây lại phải chí thành đảnh lễ Tam bảo, khắp vì mười phương tận hư không giới, hiện tạivị lai hết thảy Tỳ kheo, Tỳ kheo ni thức xoa ma na, sa di, sa di ni cùng quyến thuộc của các vị ấy mà lễ Phật, lại nguyện vì mười phương, tận hư không giới hết thảy Ưu bà tắc, Ưu bà diquyến thuộc của các vị ấy mà lễ Phật; lại nguyện vì từ xưa đến nay hết thảy các nhà tín thí đàn việt, thiện ác tri thức với những người có duyên hay vô duyên với Phật pháp, cùng quyến thuộc của các vị ấy mà lễ Phật. Như thế, hết thảy nhơn loại trong nhơn đạo và quyến thuộc của nhơn đạo ngày nay Đại chúng do từ bi tâm khắp vì hết thảy mà quy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Đăng Vương Phật

Nam mô Trí Đảnh Phật

Nam mô Thượng Vương Phật

Nam mô Địa Vương Phật

Nam mô Chí Giải Thoát Phật

Nam mô Kim Kế Phật

Nam mô La Hầu Nhật Phật

Nam mô Mạc Năng Thắng Phật

Nam mô Mâu Ni Tịnh Phật

Nam mô Thiện Quang Phật

Nam mô Kim Tế Phật

Nam mô Chủng Đức Thiên Vương Phật

Nam mô Pháp Cái Phật

Nam mô Đức Tý Phật

Nam mô Ương Già Đà Phật

Nam mô Mỹ Diệu Huệ Phật

Nam mô Vy Ý Phật

Nam mô Chư Oai Đức Phật

Nam mô Sư Tử Kế Phật

Nam mô Giải Thoát Tướng Phật

Nam mô Oai Tướng Phật

Nam mô Đoạn Lưu Phật

Nam mô Huệ Tạng Phật

Nam mô Trí Tụ Phật

Nam mô Vô Ngại Tán Phật

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, đồng gia t6m che chở, nguyện cho mười phương tận hư không giới hết thảy Tỳ, Tỳ kheo ni, thức xoa ma na, sa di, sa di niquyến thuộc của các vị ấy; lại nguyện cho mười phương hết thảy ưu bà tắc, ưu bà diquyến thuộc của các vị ấy, lại nguyện cho từ xưa đến nay hết thảy các nhà tín thí, đàn việt, thiện hữu, ác hữu, cùng các người có duyên hay vô duyên với Phật phápquyến thuộc của các vị ấy, rộng ra cho đến nhân loại, hết thảy nhân đạo, từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, bao nhiêu phiền não điều được đoạn trừ, bao nhiêu duyên chướng đều được thanh tịnh, bao nhiêu tội nghiệp đều được sạch hết, bao nhiêu thống khổ đều được giải thoát; xa lìa ba nghiệp, trừ năm sợ hãi; bốn vô lượng tâm, sáu ba la mật thường được hiện tiền; bốn vô ngại trí, sáu thức thần thông đều được tự tại, tu Bồ tát hạnh, vào đạo nhất thừa, độ thoát chúng sanh.

 

CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI SÁU

LỄ PHẬT THẾ TỨ CHÚNG QUÁ KHỨ

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại hết lòng đảnh lễ Tam bảo. Nguyện vì mười phương tận hư không giới hết thảy Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, thức xoa ma na, sa di, sa di ni đã qua đời rồi; hết thảy ưu bà tắc, ưu bà di, rộng ra cho đến mười phương hết thảy nhân đạo, hết thảy nhân đạo đã qua đời rồi và quyến thuộc của các vị ấy, ngày nay Đại chúng do tâm từ bi đồng như tâm của chư Phật, khắp các người ấy mà quy y thế gian Đại tử bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam Bảo Tụ Phật

Nam mô Thiện Âm Phật

Nam mô Sơn Vương Tướng Phật

Nam mô Pháp Đảnh Phật

Nam mô Giải Thoát Đức Phật

Nam mô Thiện Đoan Nghiêm Phật

Nam mô Cát Thân Phật

Nam mô Ái Ngữ Phật

Nam mô Sư Tử Lợi Phật

Nam mô Hòa Lâu Na Phật

Nam mô Sư Tử Pháp Phật

Nam mô Pháp Lực Phật

Nam mô Ái Nhạo Phật

Nam mô Tán Bất Động Phật

Nam mô Chúng Minh Vương Phật

Nam mô Giác Ngộ Phật

Nam mô Diệu Minh Phật

Nam mô Ý Trú Nghĩa Phật

Nam mô Quang Chiếu Phật

Nam mô Hương Đức Phật

Nam mô Linh Hỷ Phật

Nam mô Bất Hư Hạnh Phật

Nam mô Diệt Khuể Phật

Nam mô Thượng Sắc Phật

Nam mô Thiện Bộ Phật

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, cứu hộ nhiếp thọ, nguyện cho hết thảy Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, thức xoa ma na, sa di, sa di niquyến thuộc của các vị ấy trong đời quá khứ; và nguyện cho hết thảy ưu bà tắc, ư bà di cùng quyến thuộc của các vị ấy trong đời quá khứ; nếu có người nào bị thống khố trong đường địa ngục, ngày nay liền được giải thoát; hoặc có người nào bị thống khổ trong đường ngã quỉ, ngày nay liền được giải thoát; hoặc có người nào bị thống khổ trong đường súc sanh, ngày nay liền được giải thoát; ra khỏi tám nạn, ra khỏi tám nạn, sanh vào tám phước, hằng xa lìa đường ác, hắng sanh về tịnh độ; tài thí vô tận, pháp thí vô tận, phước đức vô tận, an lạc vô tận, thọ mạng vô tận, trí huệ vô tận, tứ vô lượng, lục ba la mật, thường được hiện tiền, tứ vô ngại trí, lục thần thông lực, như ý tự tại; thường được thấy Phật, nghe pháp, tu Bồ tát đạo, dõng mãnh, tinh tấn, không thôi không nghỉ, tiến lên cho đến địa vị vô thượng chánh đẳng chánh giác, rộng độ hết thảy chúng sanh.

 

TỪ BI ĐẠO TRÀNG SÁM PHÁP

QUYỂN THỨ TÁM

--- HẾT ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29920)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27211)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21814)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22270)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23646)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20470)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20082)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21972)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24791)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19026)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24803)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 31015)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24026)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27798)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26567)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21386)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23252)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38193)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18822)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18455)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20014)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19076)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23213)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23920)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22849)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22962)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29624)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20659)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18748)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15875)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18883)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19712)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20199)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19980)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18151)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22989)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34219)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16451)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16952)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39306)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26129)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20137)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18886)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24104)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29185)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22935)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 31005)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21049)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26892)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20716)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26295)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23363)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19846)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24709)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30057)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20251)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20438)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15172)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15855)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23937)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant