Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

9. Hoa Nghiêm Tôn

23 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 9257)
9. Hoa Nghiêm Tôn

HOA NGHIÊM TÔN

I.- DUYÊN KHỞI LẬP TÔN

 Tôn này y theo kinh Hoa Nghiêm mà lập ra, cho nên gọi là Hoa Nghiêm tôn. Đời Đường ngài Đồ Thuận Hòa thượng làm bộ ‘Pháp giới quá’, dùng hơn hai ngàn lời nói, tổng quát cả ý chỉ mầu nhiệm của kinh Hoa Nghiêm, làm bậc sơ tổ tôn này. Người đắc truyền thứ nhất là ngài Trí Nghiêm, (Ngài này ở chùa Chí Tướng, nên cũng gọi là Chí Tướng tôn giả), làm bộ ‘sưu huyền ký’ để giải kinh Hoa Nghiêm, và làm ra ‘thập huyền môn’, ‘ngũ thập yếu vấn đáp’ và chương ‘khổng mục’ để giải bày nghĩa lý. Ngài lại truyền cho ngài Pháp Tạng (Hiền Thủ quốc sư), ngài này cũng làm bộ ‘Thám huyền ký’ và nhiều chương sớ khác, để xiển dương lý nghĩa mầu nhiệm về nhất thừa, pháp môn Hoa Nghiêm nhơn đó mà phát triển và thạnh hành; cho nên tôn này cũng gọi là Hiền Thủ tôn. Kế đến đời ngài Trừng Quán (Thanh Lương quốc sư) làm bộ ‘Hoa Nghiêm sớ sao’, để giải thích kinh Hoa Nghiêm mới dịch, lý thí toàn y theo khuôn phép của ngài Hiền Thủ, rõ bày lý nghĩa rất rộng và mầu nhiệm sâu xa, được người đời trân trọng.

II.- NĂM THỜI GIÁO PHÁP

 Tôn này lập ra năm thời giáo pháp, để nhiếp thâu hết thảy pháp môn trong Phật giáo.

 1.- Tiểu giáo, tức là giáo lý về Tiểu thừa, chỉ giải rõ lý ngã không, như kinh A-hàm, Luận Cu-xá v.v...

 2.- Thỉ giáo, là giáo lý về bước đầu của Đại thừa; giáo lý trong thời kỳ này lại chia ra ‘không thỉ giáo’ và ‘tướng thỉ giáo’ hai loại. Không thỉ giáo nói rõ hết thảy đều không, để phá trừ pháp chấp, như kinh Bát-nhã và Luận Trung quán v.v... Còn tướng thỉ giáo là tùy theo ý của kẻ phàm phuthuyết pháp, tức là những pháp môn quyền, thiệt của Phật Thích Ca nói ra vậy; còn như pháp thân Phật là ở trong cảnh thọ dụng pháp lạc, đối với quyến thuộc của mình (các vị Đại Bồ-tát là quyến thuộc của Phật), chỉ rõ cái cảnh giới nội chứng, ấy là lối thuyết pháp tùy theo ý mình, tức là Kim bộ và Thai bộ[1] của đức Đại Nhật Như Lai nói ra vậy.

III.- KINH ĐIỂN Y CỨ CỦA TÔN NÀY

 Tôn này lấy kinh Đại Nhật và kinh Kim Cang đảnh làm giáo điển cội gốc, gọi là hai bộ kinh lớn; lại thêm kinh Tô Tất địa, kinh Du kỳ, kinh Yếu lược niệm tụng, cọng lại, gọi là năm bộ kinh về Bí mật giáo.

IV.- GIÁO TƯỚNGSỰ TƯỚNG

 Sự tu hành của Mật giáo thời chú trọng về thực hành, từ tụng chúkết ấn, cho đến sự cúng dường, lập đàn, các lối nghi thức đều có cái khuôn phép nhất định, chớ không phải dụng ý riêng mà làm càn được. Cái phép tắc thực hành tu niệm ấy, gọi là sự tướng; nói rõ cái ý nghĩa sâu xa mầu nhiệm của sự tướng, gọi là giáo tướng. Không học giáo tướng thời không suốt ngộ được ý thú, không học sự tướng thời hết thảy đều là nói suông; cho nên hai tướng ấy không được thiên bỏ bên nào. Giáo tướng về lý luận, có thể theo nơi kinh điểntìm tòi, còn phương pháp về sự tướng tu tụng, thông thường phải có A-xà-lê truyền cho mới được. A-xà-lê nghĩa là khuôn phép, là ông thầy truyền đạo bên Mật tôn.

V.- SÁU ĐẠI

 Sáu đại châu khắp cả pháp giới, làm bản thể cho hết thảy các pháp, gọi là thể lớn của sáu đạiSáu đại là: địa, thủy, hỏa, phong, không và thức. Năm đại trước thuộc về sắc, một đại sau thuộc về tâm. Sáu đại ấy là những nguyên tố thành lập ra vạn hữu trong vũ trụ, nhưng mỗi mỗi đều dung thông không ngăn ngại, thâu nhiếp lẫn nhau, gọi là sáu đại không ngăn ngại; sáu đại ấy theo duyên mà sanh khởi ra các pháp, gọi là sáu đại duyên khởi.

VI.- BỐN PHÉP MẠN TRÀ LA

 Bốn phép Mạn-trà-la là cái tướng sai biệt của bản thể do sáu đại mà biến hiện ra, mỗi mỗi đều không lường không ngăn, gọi là tứ mạn tướng đại[2]. Tứ mạn là: đại, tam, pháp, yết, là tiếng vắn tắt của bốn pháp mạn-trà-la.

 1.- Đại mạn-trà-la là chỉ cái sắc thân trang nghiêm của Phật, Bồ-tát mà nói, như các pho tượng chạm trổ, tô vẽ v.v... nói rộng ra thời cái thân của các loài hữu tình trong mười pháp giới cho đến sắc tướng của muôn pháp, đều y theo địa, thủy, hỏa, phong và không mà hiện ra, đều gọi là Đại mạn-trà-la.

 2.- Tam muội gia mạn-trà-la là chỉ những tiêu biểu của Phật và Bồ-tát hay cầm mà nói, như hoa sen, ngọc hữu châu, dao gươm v.v... Tam muội gia dịch nghĩa là lời thề, dùng những vật ấy có tiêu biểu lời thề nguyện của chư Phật và các vị Bồ-tát; nếu theo nghĩa rộng mà nói thời gồm hết thảy cơ khí trong vũ trụ, phàm những đồ dùng trong thường ngày và núi, sông, cây, cỏ, mỗi pháp đều bày cái đặc tánh của nó, đều gọi là tạm muội gia mạn-trà-la.

 3.- Pháp mạn-trà-la là chỉ chủng tử và lời chơn ngôn của các đức Phật các vị Bồ-tát mà nói. Chủng tử là dùng một chữ cái làm bản thể của Phật và Bồ-tát, như chủng tử của đức Đại Nhật là chữ (đọc là A), chủng tử của ngài Kim cang đát tỏa là (đọc là hùm). Chơn ngôn tức là Mật chú, lại là cái danh hiệu của Phật và Bồ-tát, cùng là văn nghĩa trong các kinh điển, cho đến suy rộng ra, thời hết thảy lời nói phô, văn học, tên gọi, ký hiệu, đều gọi là Pháp mạn-trà-la.

 4.- Yết-ma mạn-trà-la là chỉ hết thảy oai nghi động tác của chư Phật va Bồ-tát mà nói. Yết-ma nghĩa là cử động, làm các sự nghiệp, theo nghĩa rộng thời sự động tác công dụng về các sự nghiệp của người hay muôn vật đều là Yết-ma mạn-trà-la.

 Mạn-trà-la ý nghĩa là tròn trịa đầy đủ. Bốn pháp mạn-trà-la là tướng của một bản thể đồng thời đều tồn tại, đã có một Mạn, tất ba Mạn kia phải đủ, bốn Mạn nơi Phật không lìa bốn Mạn của chúng sinh, bốn Mạn của chúng sinh không lìa bốn Mạn của chư Phật, cho nên gọi là Tứ Mạn bất ly.

VII.- TAM MẬT

 Sự tác dụng của tam mật khắp cả pháp giới, gọi là tam mật dụng đạiTam mật gồm : thân mật, ngữ mậtý mật. Nói về cõi Phật thời thân, ngữ và ý của Phật, công đức mầu nhiệm, không thể nghĩ nghì. Đức Đại Nhật Như Lai là cái thân bao khắp cả pháp giới, cho nên lấy thể tướng pháp giới làm thân mật, hết thảy tiếng tămngữ mật, cái thức lớn bao khắp là ý mật ; nòi về chúng sinh thời tay bắt ấn là thân mật, miêng niệm chơn ngônngữ mật, tâm chuyên vào tam-ma-địa (thiền định) của tôn này là ý mật, ấy gọi là hữu tướng tam mật. Nhờ có chơn ngôn mà dẹp được khẩu nghiệp, quán tưởng đức Bổn tôn Tỳ-lô-giá-na mà dẹp được vọng tưởng, ý nghiệp thanh tịnh tay bắt ấn là tịnh được thân nghiệp ; người tu hành dùng phương tiện ấy mà dẹp được ba nghiệp, tức là tam mật của đức Như Lai thường gia trì hộ niệm cho. Vì người ta và đức Như Lai đều do sáu đại làm bản thể, bốn pháp mạn-trà-la làm tướng, vốn không sai khác; chẳng qua chúng sinhnghiệp chướng mê lầm ràng buộc, cho nên mê ngộ khác nhau đó thôi; nay dùng tam mật tu hành, thời ánh sáng của đức Như Lai chói rọi vào tâm thủy[3] của người (gọi là gia), tâm thủy của người cảm chịu được cái ánh sáng của đức Đại Nhật Như Lai (gọi là trì), ấy là nghĩa tam mật gia trìTam mật của chúng sinh cùng với tam mật của Như Lai, ăn hiệp với nhau cùng thâu nhiếp, không hai không khác, gọi là tam mật Du-già (Du-già nghĩa là tương ứng, ăn hiệp). Nếu bậc A-xà-lê rõ thấu nghĩa Du-già, thông suốt ý mầu nhiệm, thời hay tịnh được bản tâm, phàm những công việc làm ra đều là ích lợIđiều phục cho chúng sinh, tùy theo mỗi việc làm thảy đều noi theo oai nghi của Phật, cho nên mọi sự hành vi cử động đều toàn là ấn cả, hết thảy lời nói phô đều là chơn ngôn, tức có chỗ gọi rằng: ỀMở miệng ra tiếng, chơn ngôn diệt tội, giơ tay động chân, đều thành mật tấn, theo việc khởi niệm, diệu quán tự thànhỂ, ấy gọi là vô tướng tam mật.

VIII.- HAI BỘ MẠN TRÀ LA

 Phàm những họa tượng của các đức Phật và các vị Bồ-tát, mặc dù nêu lên một vị nào, tất đủ bốn phép Mạn-trà-la. Nhưng thông thường gọi là Mạn-trà-la, phần nhiều là chỉ vào các pho tượng đắp hay vẽ, có hình thức nhất định mà nói; còn như nói về cội gốc Mạn-trà-la của Phật giáo, tức là hai bộ Mạn-trà-la: Kim cang giới và Thái tạng giới.

 Mạn-trà-la về Kim cang giới, là biểu cái ‘trí huệ’ do sự tu hànhhiện ra, nghĩa là nói trí huệ của Như Lai hay phá trừ mê muội chướng ngại, chứng được chơn lý thật tướng, trí ấy rất chắc chắn, lanh lợi, sắc sảo, như ngọc Kim cương, cho nên gọi là Kim cương giới.

 Mạn-trà-la về Thai tạng giới, là cái ‘lý’ đầy đủ, nghĩa là nói: Chúng sinh đều sẵn có cái đức tánh nhiếp trì, trùm chứa hết thảy công đức của Như Lai mà chưa hiện bày, như cái thai ba mẹ chứa đựng đứa con, cho nên gọi là Thai tạng giới.

 Trí là chỉ về sai biệt, lý chỉ về bình đẳng; trí là do tu tập mà sanh, cho nên phối hợp với thỉ giáo; lý là cái sẵn có, cho nên phối hiệp với bản giác.

 Còn như Kim-cang giới là quả, trong sáu đại là thức đại, thai tạng giới là nhơn; trong sáu đại thuộc về năm đại trước. Kim cang giới có chin hội, Phật và Bồ-tát phàm 1.461 vị, Thại tạng giới có 12 viên, phàm 414 vị.

IX.- MƯỜI TRỤ TÂM

 Tôn này vì muốn phân biệt chỗ tạo nghiệp chịu báo của các loài dị sanh, chỗ tu chứng đoạn hoặc của các bậc Tiểu thừa và Bồ-tát, nên lập ra mười trụ tâm để giải rõ.

 1.- Tâm dị sanh để dương : Dị sanh tức là phàm phu, nghĩa là nói kẻ phàm phu mê lầm, không rõ lành dữ, chỉ niệm về sự ăn uống dâm dục, như con dê xù kia không khác; ấy là cái tu nhơn về ba ác thú địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.

 2.- Tâm ngu đồng trụ giới : Nghĩa là nói người mê muội không có trí huệ, như đứa con nít, phải nhờ các nhơn duyên ở ngoài mới phát khởi lòng lành, hoặc làm những việc từ thiện ở đời, hoặc giữ năm giới; ấy là các quả báo nơi nhơn gian.

 3.- Tâm anh đồng vô úy : Nghĩa là nói, người tâm trí hèn yếu, như đứa con nít, chỉ cần sanh lên cõi trời, xa lìa sự khổ não trong ác thú là được, ấy là lối trụ tâm về bậc thiên thừaPhạm thiên ngoại đạo và những người tu về thập thiện, đều nhiếp vào tâm ấy. Ba tâm kể trên là lối trụ tâm về thế gian, ở trong năm thừa Phật giáo thời thuộc về nhơn thiên thừa.

 4.- Tâm duy uẩn vô ngã : Nghĩa là nói người đã dứt bỏ tánh chấp trước về nhơn ngã, ra khỏi ba cõi, nhơn ngã đều không, chỉ còn năm uẩn; ấy là lối trụ tâm của bậc Thanh văn, là cái bước đầu tiên về đạo xuất thế sơ tâm của Tiểu thừa vậy.

 5.- Tâm bạt nghiệp nhơn chủng : Nghiệp là hoặc nghiệp, nhơn là nhơn duyên, chủng là chủng tử vô minh, bởi vô minh chủng tử nên mới sanh ra mê lầm, gây làm các nghiệp, sống chết xoay vần; nay quán theo 12 nhơn duyên, nhổ trừ chủng tử về nghiệp nhơn, ra khỏi ba cõi; ấy là lối trụ tâm về bậc Duyên giác, là bậc hậu tâm của Tiểu thừa. Hai tâm kể trên đều thuộc về giáo lý Tiểu thừa.

 6.- Tâm tha duyên Đại thừa : Bậc Tiểu thừa chỉ cầu tự độ, may quán theo lý duy tâm, phát khởi lòng đại bi vô duyên phổ độ tất cả chúng sinh; vì bậc này vốn là bước đầu tiên về Đại thừa, cho nên đặc biệt nêu tên là Đại thừa; ấy là lối trụ tâm về Pháp tướng tôn.

 7.- Tâm giác tâm bất sanh : Là nói người tu hành khi quán tưởng tám pháp bất chánh quán, rõ biết tâm tánh bản lai thanh tịnh, không sanh không diệt; ấy là lối trụ tâm về tam luận tôn. Hai lối trụ tâm vừa kể trên, đều thuộc về Tam thừa giáo.

 8.- Tâm nhất đạo vô viNhất đạo là nói cái lý thật tướng của chơn như nhất thiệt đế. Nhất thiệt đế tức không, tức giả, tức trung. Dùng phép nhất thiệt ấy, vận chở chúng sinh, gọi là nhất thừa. Pháp nhất thừa ấy không hai không ba, nên cũng gọi là nhất đạoThông suốt đạo lý ấy, thời chúng sinh và Phật không hai, cảnh và trí viên dung, vô thượng vô vi, một đạo thanh tịnh; ấy là lối trụ tâm của Thiên thai tôn.

 9.- Tâm cực vô tự tánh : Là nói pháp duyên khởi không có tự tánh, chỗ cứu kính của không tánh, thời sự sự vô ngại, mười huyền duyên khởi, sáu tướng viên dung, ấy là lối trụ tâm của tôn Hoa Nghiêm. Hai lối trụ kể trên đều thuộc về giáo lý nhất thừa.

 10.- Tâm bí mật trang nghiêmBí mật trang nghiêm tức là Mạn-trà-la dùng hằng sa đức tánh của Phật, trần số pháp tam mậttrang nghiêm thân độ, cho nên gọi là bí mật trang nghiêm. Lại pháp tam mật ấy, tuy bậc thập địa đẳng giác cũng không thể biết được, cho nên gọi là bí mật; thể tánh của tam mật đoan chính mầu nhiệm cho nên gọi là trang nghiêm ; ấy là lối trụ tâm của chơn ngôn mật giáo, là giáo lý về Kim Cang thừa.

Các danh mục của thập trụ tâm, thấy trong kinh Đại Nhật về phẩm Trụ tâm và luận Bồ-đề tâm cùng luận Thập trụ tâm, bí mật bảo thược của ngài Hoằng Pháp đại sư làm, phát huy nghĩa bí yếu, chỗ giải thích không phải một, những lời thuật lại ở trên là nương theo thứ lớp cạn sâu của chin biến (từ 1 đến 9) một mật (lối trụ tâm thứ 10) mà giải thích, gọi là thập trụ tâm hiển mật hiệp luận.
 

[1] Xem hai bộ mạn-trà-la ở sau sẽ rõ.
[2] Tướng rộng lớn bao trùm của bốn phép mạn trà la.
[3] Tâm mình khi được thanh tịnh hay soi rõ các pháp, cũng ví như biển nước trong yên lặng, hay chiếu rõ rệt mặt trăng và các ngôi sao, nên gọi là tâm thủy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31358)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26237)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27550)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27942)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26741)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31254)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20293)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22979)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30094)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21606)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20291)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22696)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20796)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30362)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28822)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34770)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44254)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35551)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22571)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21398)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20715)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24785)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37950)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19092)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19357)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21855)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20897)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29542)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35189)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28849)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32629)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26254)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28959)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43180)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34988)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43982)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37933)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21350)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43049)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49039)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39881)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53816)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36842)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40835)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49754)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47349)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27770)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27044)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27247)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24084)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20872)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34338)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22505)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25145)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25876)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22978)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22482)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21772)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23346)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21202)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant