Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chỉ Quán Môn Luận Tụng

11 Tháng Tư 201607:50(Xem: 13966)
Chỉ Quán Môn Luận Tụng
CHỈ QUÁN MÔN LUẬN TỤNG

Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Luận Tập Bộ Toàn quyển thứ 32.
Ngài Thế Thân Bồ-Tát tạo luận bằng chữ Phạn.
Ngài Tam Tạng pháp sư Nghĩa Tịnh phụng chiếu dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán
Sa-môn Thích Như Điển, Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc
dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt
nhân lần nhập thất thứ tư tại Tu Viện Đa Bảo Úc Đại Lợi.

Luận nầy dịch vào ngày 28.12.2006.
Tỳ Kheo Thích Hạnh Nhẫn góp phần hiệu đính xong lần thứ nhất vào ngày 10.4.2016.

Chỉ Quán Môn Luận Tụng

Nếu thấy thân người nữ
Cùng với vẻ diễm kiều
Người ngu không biết rõ
Vọng sinh ý dâm nhiễm.
Phật nói các: Sình trướng
Tiếp xúc, trừ ý dâm,
Theo được lời Thế Tôn
Được thắng quả không sót.
Giới tịnh, có nghe, nghĩ
Sách tiến thường tu tập,
Buộc niệm quán các cảnh
Đây là nhân giải thoát.
Nếu người có nhiễm sân
hôn trầm thụy miên,
Trạo cử, ác tác. Nghi
Năm thứ ngăn tu Định.
Ít nghe, ở đông người,
Ham vui thích sự hèn,
Ái thân và thọ dụng
Cũng ngăn được tu Định.
Loạn tâm có năm duyên
Tình tán theo các cảnh
Đắm vị và trầm, cử,
Ngã mạn, nặng danh tiếng.
Bí-xu nương Thánh giáo
Có lỗi phải nói trừ,
Khéo lấy duyên trụ tâm
Đó là hành tối thắng.
Tiếp, ở nơi yên lặng
Không hề có trở ngại,
Sau đó ngưng nghĩ tà
Là nghiệp đầu Bí-xu.
Nên ở rừng thây chết,
Đắp y phục phấn tảo,
Thường cầu sự tĩnh chỉ
Đoạn trừ tâm dâm nhiễm.
Khất thực thấy người nữ
Phải quán là bất tịnh,
Thu mắt trừ ý tà,
Chính tâm nhận đồ ăn.
Lắm lời, nhiều việc tạp
Đều phải nên xa lìa,
Duyên phiền não lại bức
Lực tuệ nên tu nhẫn.

Dưới cây trong bụi cỏ
Hoặc ở trong hang động,
Khi quán nên ở đây
Yên tịnh dễ tu tâm.
Khi duyên cảnh tập định
Không quá cao quá thấp,
Không nên quá gần, xa
Khiến tương ưng với cảnh.
Khéo giữ cảnh được duyên
Khéo quán sát rành rõ,
Khi nhắm mắt trụ tâm
Cũng như mở mắt thấy.
Căn môn đều nhiếp soát,
Trụ niệm ngưng nội tâm,
Duyên cảnh quán hiện tiền
Niệm niệm khiến liên tục.
Với tướng được giữ trước
Dụng tâm quán hình mạo
Sình trướng bên nữ căn
Đáng sợ đáng khinh hiềm.
Giống như nước ao đục
Gió thổi khiến động dao,
Khi nhìn ảnh các cây
Không trụ được sáng tỏ.
Nước tâm nhơ phiền não
Bị gió tình loạn thổi,
Khi lắng tâm quán sát
Tối tăm không thể trụ.
Tâm chìm nên sách tiến
Nên quán sự thắng diệu,
Như khốn đỉa hút máu
Rưới nước khiến hồi tỉnh.
Lại phải chóng thu liễm
An tâm nơi cảnh cũ,
Khiến ý có kham năng
Khéo điều đều tùy niệm.
Nếu tâm mà trạo cử
Nên nghĩ chán sự ác
Khiến tâm trụ tịch tĩnh
Như câu móc đầu voi.
Lìa xa trầm, trạo cử
Nên bình đẳng vận tâm
Tùy tình trụ nơi xả
Khi ấy không lỗi lầm.
Từ đây dần trụ được
Giữ tướng ảnh tâm an
Sáng tỏ hành trung đạo
Cầm đèn chính niệm chiếu.
Khi ấy dùng Tầm, Tứ
Nên lần lượt quán sát
Định ảnh tức liền sinh
Rõ ràng trụ ở trước.
Tịnh sáng không dao động
Như hình Đại Trượng Phu
Ảnh này vọng quán trước
Chính là tướng sai khác.
Tướng này đã sinh rồi
Các dục ác liền trừ
Tức người buộc tâm này
Tướng phương tiện Sơ định.
Thứ biết thể của sân
Vốn do tham dục phát,
Ái dục đã trừ rồi
Lìa được khỏi sân khuể.
Tiếp dùng niệm sách tiến
Trừ bỏ tâm hôn trầm,
Đã quán tướng sai khác
Nghi tình liền ngưng dứt.
Thứ phải trừ ác tác
Khéo đi đường an ổn,
Tịch tĩnh không chướng ngại
Phòng ngừa được trạo cử.
Nên biết dùng tâm thô
Quán tướng được giữ kia,
Liền ở trong tâm ảnh
Dùng ti vi tế cầu.
Thấy tâm hỷ sai khác
Do đây được khinh an,
Thứ chứng được định lạc
Định chi thứ như vậy.
Tức là định căn bản
Khéo an nơi tâm niệm,
Giống như muốn đến thôn
Và đến ở trong thôn.
Đã được định căn bản
Lại tu thêm hành khác
Được Tha tâm, Túc trụ,
Thần thông Thiên nhãn, nhĩ.
Ở đây khi có Tư
Tâm chưa được tĩnh trụ
Giống như sông có sóng
Nên biết địa chư cao.
Đã được Sơ định rồi
Nhưng trụ nơi sở duyên,
Tiếp y Định thứ hai
Tầm, Tư đều ngưng dứt.
Tuy trụ được vị này
Còn có nước hỷ động,
Khi vào định thứ ba
Tâm liền được tĩnh trụ.
Do tâm ấy có lạc
Chưa thể khiến trụ niệm,
Đã chứng định thứ tư
Các lỗi đều dứt trừ.
Phần thối, phần thắng tiến,
Phần trụ, phần quyết trạch,

Tĩnh lự có bốn loại
Người tu định phải biết.
Nếu định thuận phiền não
Đây gọi là phần thối,
Sau thắng là phần thắng,
Trụ tụ trụ nên biết.
Do trước khéo phân biệt
Là nhân quyết trạch đạo,
Định này với được kia
Gọi là phần quyết trạch.
Nơi các tướng vô thường
Làm các hành giải Khổ...
Nếu người được định này
Là các phần đạo: Noãn...
Với các tướng xanh, trướng
Sự quán có nhiều đường,
Như Thánh giáo tu hành
Khác nhau phải nên biết.
Tử thi gió vào bụng
Nơi huyệt có mủ chảy
Cả háng cũng đều khô
Gọi đó là sưng trướng.
Không ái phần thân thô
Chỉ tham thân tế hoạt,
Với ngưới tâm nhiễm này
Khiến tu quán như vậy.
Hoặc ở nơi tử thi
Có ít mủ trắng chảy,
Thịt còn lại đều xanh
Gọi đó là bầm xanh.
Thấy sắc mà sinh ái
Đó gọi người ái sắc,
Đối trị dùng xanh bầm,
Mặt trời lúc nắng cháy.
Tử thi khắp chảy mủ
Đó là tướng mủ chảy,
Với người ái hương kia
Khiến quán ngừng tâm nhiễm.
Lưng tử thi đứt nát
Gọi là tướng đoạn hoại,
Với người ái toàn thân
Đại Tiên Tôn vì nói.
Đối trị ái da thịt
Vì nói tướng thực tàn,
Tay, chân các phần xương
Tùy chỗ đều phân tán.
Với người tham các phần
Nói tướng răng xương loạn,
Ngay nơi tướng xương loạn
Dao, gậy phá chia lìa.
Cũng vì ái toàn thân
Khiến quán tướng đả loạn
Thi hài bị dao chém
Hoặc bị gậy, tên phá.
Máu chảy khắp thân tàn
Gọi là tướng huyết đồ.
Sạch sẽ hương xoa thân
Tư trang mặc áo đẹp,
Nơi đó người khởi tham
Dùng thuốc hay phân tích.
Với cảnh chỉ mình ái
Không chấp nhận người xem,
Nhiều trùng rúc tử thi
Khiến quán trừ niệm ác.
Thịt tử thi tiêu tán
Chỉ còn lại răng, xương,
Nơi răng sinh tham trước
Khiến quán tướng răng xương.
Nếu thấy người mới chết
Thức đi còn thân tàn
Chúng sinh tham trước lạc
Khiến trừ tham kiều diễm.
Phân tiểu và dớt dãi
Tụ hợp chung thành thân,
Ba mươi hai loại vật
Da bọc gọi là người.
Lông tóc và móng, răng
Gan, ruột các tướng nhân
Trong trống ba trăm xương,
Ràng quấn chín trăm xương;
Chín lỗ chảy bất tịnh
Bẩn tưởi khó trình bày,
Quán kỹ thật đáng ghét,
Người trí chẳng nên gần.
Đã quán thân người nữ
Cũng lại xét thân mình
Nơi đó nhân tham nhiễm
Theo lý thường buộc niệm.
Không thoát ngục ba cõi
Hoặc do tâm dục nhiễm
Cho nên người trí sáng
Cực khéo nghĩ sự này.
Trải nhiều khổ địa ngục
May mắn được thân người
phóng túng cuồng tâm
Không tu hạnh thù thắng.
Tham dâm có nhiều loại
Tùy sinh ác chẳng đồng,
Một quán đều trừ được
Chính là quán xương trắng.
Chạm sắc hình kiều diễm
Áo quần sinh nhiễm trước,
Thuốc nào trừ được đây?
Không qua quán xương trắng.
Trước nơi ngón chân cái
Định tâm duyên tạo sưng
Vỡ ra đã chảy mủ
Thịt đều tùy rơi rụng.
Liền quán hình xương ngón
sắc như chi, câu trắng,
Vết sưng đã lớn dần
Da thịt đều trừ sạch.
Lần lượt quán như thế
Thịt thân đều trừ hết,
Chính niệm thắng giải thành
Chỉ quán khớp xương ấy.
Nếu còn lại ít thịt
Bèn gọi là loạn ý,
Huống lại phóng tâm khỉ
Rong ruổi cầu các cảnh.
Thời gian lâu buộc tưởng
Tự biết khéo trụ được,
Tiếp dần đến người khác
Quán chung là đốt xương.
Dần rộng đến bờ biển
Trong đó đầy xương trắng,
Định này đã thành rồi
Bỏ rộng lại khiến hẹp.
Khi lược bỏ từ ngoài
Đến chỉ xương thân mình,
Lại quán xương ngón chân
Là thứ tự tâm định.
Hoặc lại bỏ từng miếng
Cực đến nơi xương đảnh,
Nên biết tâm cuối cùng
Nhiếp giữa mi khiến trụ.
Nếu tu tập như vậy
Thường sinh thắng Phạm cung,
Chẳng đọa lạc ba đường
Được sinh trời Ngũ Tịnh.
Tâm nhân gian thiện tán
Trở lại dòng sinh tử,
Người trí tu tâm định
Như lửa cháy áo thân.
Liền bỏ được các duyên
Nên ở nơi rừng vắng,
Chớ khiến vô thường bức
Chết uổng trong tán tâm.
Dùng Bát-nhã tịnh tâm
Rốt được quả khả ái,
Nếu không mong hậu hữu
Với thắng đạo nên tu.
Cạo tóc đắp Ca-sa
Phải nên tu Thánh đạo,
Tự nói các tạp sự
Sẽ là nhân sinh tử.


CHỈ QUÁN MÔN LUẬN TỤNG

Sửa chính tả: Phật Tử Thanh Phi

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10367)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12335)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11640)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28801)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12047)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13006)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11442)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12371)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17438)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53029)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35481)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21388)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10677)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19235)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12403)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26034)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13312)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14376)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16072)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13726)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16827)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17571)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13116)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12517)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11606)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11599)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14502)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20467)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18987)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19560)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18649)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12181)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12298)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13856)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15024)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15035)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13988)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15508)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11391)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17189)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14975)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20194)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14611)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13836)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11708)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15056)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12995)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22867)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14552)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11647)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13165)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16882)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18338)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11936)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11494)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15846)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12870)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18903)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18417)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15764)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant