Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Một Trăm Năm Mươi Bài Kệ Xưng Tán Phật

05 Tháng Tám 201623:14(Xem: 15362)
Một Trăm Năm Mươi Bài Kệ Xưng Tán Phật

MỘT TRĂM NĂM MƯƠI BÀI KỆ XƯNG TÁN PHẬT

  Tôn Giả Ma-Chí-Lợi Chế-Thác tạo

 

Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn.

Đại Đường, Sa-môn Nghĩa Tịnh dịch Phạn-Hán, tại chùa Na-Lan-Đà, Ấn-Độ.

Sa-môn Thích Như Điển, Phương trượng chùa Viên Giác, Hannover, Đức quốc dịch Hán-Việt,
tại thư phòng chùa Viên Giác, An Cư Kiết Hạ 2007, Phật lịch 2551.

Tỳ Kheo Thích Hạnh Nhẫn góp phần hiệu đính lần thứ nhất xong ngày 5 tháng 8 năm 2016.

 

 Tôn Giả Ma Chí Lợi Chế Thác

Thế Tôn thù thắng nhất

Khéo đoạn các nhân ác,

Vô lượng thắng công đức

Cùng tụ thân Như Lai.

Chỉ Phật đáng quy y

Đáng xưng tán, thừa sự.

Người suy nghĩ như lý

Nên trụ giáo lý này.

Các tập, phiền não ác

Đấng Hộ Thế đã trừ,

Phúc, trí đều viên mãn

Chỉ Ngài không thối thất.

Người tâm sinh ác kiến

Khởi hiềm hận Thế Tôn

Xét tìm nghiệp thân, khẩu,

Chẳng thể được khiếm khuyết.

Ghi nhớ:Được thân người

Nghe pháp sinh hoan hỉ,

Ví như trong biển lớn

Rùa mù gặp bọng cây.

Mất niệm luôn rong ruổi

Nghiệp hoặc rớt hầm sâu.

Nên con dụng ngôn từ

Tán Phật công đức thật

Mâu-Ni vô lượng cảnh

Thánh đức không ngằn mé.

Vì mong cầu lợi mình

Con nay khen phần nhỏ.

Kính lễ Vô Sư Trí

Tính các sự hiếm có,

Phúc, tuệ và uy quang

Ai biết được số lượng!

Như Lai đức vô hạn

Không sánh, chẳng thể nói.

Con nay cầu phúc lợi

Dùng danh giả tán thán,

Lực trí con yếu cạn

Phật đức không bến bờ,

Chỉ nguyện Đại Từ Bi

Cứu con chẳng chỗ nương.

Oán thân trọn bình đẳng,

Khởi đại bi Vô Duyên

Với khắp chúng sinh giới

Hằng làm bạn chân thiện.

Nội tài còn xả được

Huống gì là ngoại tài,

Ngài không tâm lẫn tiếc

Người cầu đều mãn nguyện;

Đem thân hộ thân người,

Dùng mạng chuộc mạng người,

Toàn thân cứu chim câu

Hoan hỉ không lẫn tiếc.

Ngài không sợ đạo ác,

Cũng chẳng tham đường lành,

Chỉ vì tâm thanh khiết

Giới luật do đây thành.

Thường lìa các tà vạy,

Luôn gần người ngay thật.

Các nghiệp vốn tính không,

Chỉ ở nghĩa đệ nhất.

Các khổ bức bách thân

Ngài khéo an ủi được.

Chính trí đoạn các hoặc,

Có lỗi, trọn khởi bi,

Bỏ mạng cứu khổ người

Sinh hoan hỉ vô lượng:

Như chết bỗng sống lại

Hỉ này lại hơn thế.

Oán đối hại thân kia

Tất cả thời phiền não,

Chẳng nhìn lỗi ác họ

Thường khởi tâm đại bi,

Gieo khắp giống Bồ-Đề

Tâm thường luôn trân quý.

Đại Hùng trí nan thắng

Đấng không ai sánh kịp,

Quả giác không gì sánh,

Khổ hành là chính nhân,

Do đó chẳng kể thân

Chăm tu các thắng phẩm;

Phú quý hay nghèo hèn

Đại Bi bình đẳng dẫn,

Trong các sự khác nhau

không tưởng cao thấp.

Quả đẳng trì thắng lạc (đẳng trì: Thiền định)

Tâm khôngtham trước.

Tế khắp chư quần sinh

Đại bi không gián đoạn.

Ngài tuy gặp cực khổ

Nơi vui chẳng mong cầu,

Các công đức diệu trí

Thù thắng không gì hơn.

Các pháp tạp nhiễm, tịnh

Trừ hư ngụy, lấy chân,

Như vua Ngỗng thanh tịnh

Hút lấy sữa, nhả nước.

Trong vô lượng ức kiếp

Dũng mãnh hướng Bồ-đề,

Trong mỗi mỗi kiếp ấy

Bỏ thân cầu diệu pháp;

Ba tăng-kỳ số lượng

Tinh cần không nhàm mỏi,

Giữ đây như bạn tốt

Để chứng diệu Bồ-đề.

Ngài không tâm tật đố,

Với kém trừ tưởng khinh,

Bình đẳng không tranh hơn,

Thắng hành trọn viên thành.

Ngài chỉ trọng làm nhân

Không cầu tròn quả vị,

Tu khắp các thắng nghiệp

Chúng đức tự thành mãn.

Chăm tu pháp xuất ly

Vượt quá các đỉnh cao;

Nơi ngồi, nằm, kinh hành,

Chẳng không làm ruộng phước;

Bạt trừ các lỗi nhiễm

Tăng trưởng đức thanh tịnh,

Đây do hành xưa thành

Chỉ Ngài vô thượng nhất.

Các phúc đều viên mãn

Các lỗi đều đã đoạn,

Tư lương mãi tích tụ

Đều quy thân Điều Ngự.

Muốn tìm các thí dụ

Không gì sánh được Phật,

Quán khắp các thế gian

Tai hoạnh nhiều chướng não,

Ví có chút phần thiện

Dễ gì so sánh được.

Lìa xa các lỗi họa

Lắng trong an bất động.

Các thiện căn tối thắng

Không thể ví dụ được.

Trí Như Lai sâu xa

Không đáy không ngằn mé,

Thế sự dụ thân Phật

Vết chân trâu- biển lớn;

Nhân sâu gánh tất cả

Thế gian không gì sánh;

Đại địa giữ sức nặng

Dụ đây thật là nhẹ.

Tối ngu si đã trừ

Sáng Mâu-Ni chiếu khắp,

Trí thế không thể dụ

Lửa đóm với nhật quang.

Ba nghiệp Như Lai sạch

Ao trong sáng trăng thu,

Đời sạch ví thân Phật

Đều thành tính bụi nhơ.

Như được dẫn ở trên

Những thù thắng thế gian

Pháp Phật lại vượt quá

Thế sự thật đáng thương.

Tụ trân bảo Thánh pháp

 Phật ở đỉnh cao nhất

Trong không dụ, không sánh

Chỉ Phật với Phật thôi.

Biển thánh trí Như Lai

Tùy vui tán phần ít,

Lời thô tán thắng đức

Đối đây thật hổ thẹn.

Thế tục thấy hàng ma

Tất cả hoặc quy phục

Quán kia đồng chân tính

“Ngã” cho nhẹ như lông.

Giả sử chiến trận lớn

Trí dũng chiến thắngđược,

Thánh đức siêu thế gian

Thắng kia không ví được.

Tiếp sau khi hàng ma

Trong phần sau của đêm

Đoạn các tập phiền não

Thắng đức đều viên mãn.

Thánh trí trừ các tối

Siêu quá nghìn mặt trời

Hàng phục các tông tà

Hiếm có không gì sánh.

Ba thiện căn viên mãn

Vĩnh diệt tham, sân, si

Tập nhân trọn đã trừ

Thanh tịnh không thể dụ.

Ngài hằng tán diệu pháp

Pháp bất chính hằng không,

Với chỗ chính, tà này

Tâm không có yêu ghét.

Với thánh chúng đệ tử

Và thầy trò ngoại đạo

Trong thuận hay đối nghịch

Tâm Phật không có hai.

Với đức không tình nhiễm,

Người có đức, chẳng tham.

Lành thay, cực không cấu

Thánh trí hằng tròn sạch.

Các căn thường trong lặng

Vĩnh lìa tâm mê vọng

Ở trong các cảnh giới

Tự thấy với hiện lượng.

Niệm tuệ cùng chân tế

Phàm ngu không lường được,

Khéo an lập ngữ ngôn

Chứng chỗ vô ngôn kia.

Sáng tịch tĩnh vô ngại

Sáng trong càng rực rỡ

Diệu sắc thế hiếm có

Ai không tâm cung kính!

Hoặc tạm gặp lần đầu

Hoặc lại thường chiêm ngưỡng

Diệu Tướng Tôn không hai

Trước sau trọn hoan hỉ.

Thân uy đức tối thắng

Người quán tâm không chán,

Dù trải vô lượng kiếp

Hân ngưỡng như mới gặp.

Đức thể của sở y,

Đức tâm của năng y,

Tính, tướng cùng dung thông

Năng, sở đầu không khác.

Đức Thiện Thệ như thế

Cùng họp thân Như Lai

Lìa tướng hảo thân Phật

Nơi khác chẳng có an.

Con nhân phúc kiếp xưa

Được gặp Điều Ngự Sư,

Ngưỡng tán núi công đức

Xa báo đáp lời Ngài.

Tất cả loài hữu tình

Đều bị phiền não giữ,

Chỉ Phật khéo trừ được,

Do bi trụ thế lâu

Ai sẽ trước kính lễ?

Chỉ Phật Đại Bi Tôn,

Thánh đức siêu thế gian

Bi nguyệnnơi sinh tử,

Ngài ở vui tịch tĩnh

Vào trược vì quần sinh,

Vĩnh kiếp mãi tinh cần

Từ tâm vì tất cả

Từ chân về lợi tục

 Do bi tâm dẫn sinh,

Như chú dùng trừ rồng

Nổi mây trút cam lộ.

 Thường ở vị thắng định

  Bình đẳng quán oán thân,

  Người hung hiểm, cuồng điên

Đầu thân về thánh đức.

Thần thông sư tử hống

 Tuyên nói Tam Giới Tôn

Lâu đã nhàm tiếng tăm

Do bi tự xưng tán.

Thường tu làm lợi người

 Chưa từng tâm tự lợi,

Từ niệm khắp chúng sinh

Với mình không riêng ái.

Bi nguyện không biên giới

Theo căn độ quần sinh,

Tùy chỗ đều nhiêu ích

Như đồ ăn cúng khắp.

Thâm tâm niệm tất cả

Chưa từng bỏ chốc lát.

Lợi họ, lại gặp nhục

Lỗi họ, chẳng do Phật.

Âm từ nói diệu nghĩa

Chắc thật chẳng hư dối,

Rộng, lược tùy cơ duyên

Vơi, đầy tùy thời chuyển.

Nếu nghe Ngài diễn nói

Ai chẳng vui hiếm có;

Khiến kia dù ác tâm

trí hoặc quy tín.

Nghĩa, từ luôn lành khéo,

Hoặc lại nói lời thô

Lợi ích trọn không uổng

Nên đều thành chân diệu,

Nhu nhuyến hoặc thô cứng

Tùy sự độ chúng sinh,

Thánh trí tâm vô ngại

Đều một vị bình đẳng.

Lành thay, nghiệp vô cấu

Thiện xảo như thầy khéo;

Thành thân vi diệu này

 Nói lời trân bảo ấy

Người thấy đều hoan hỉ

Nghe nói đều mở tâm;

Mặt đẹp nói từ diệu

Như trăng tuôn cam lồ;

Mây từ xối mưa pháp

Tẩy sạch được dục trần,

Như Kim súy điểu vương

Ăn diệt các rồng độc;

 Dứt được các tăm tối

Như sáng nghìn mặt trời,

Phá diệt núi ngã mạn

Như chày của Đế-Thích.

Hiện chứng không hư dối,

Tĩnh lự trừ loạn tâm,

Như thật thiện tu hành

Ba sựđều viên mãn.

Mới nghe điều Phật nói

Tâm hỉ đã mở sáng,

Từ đây khéo tư duy

Tiêu trừ các cấu nhiễm.

Gặp khổ được an ủi,

Phóng dật, khiến sinh sợ,

Đắm vui, khuyên nên nhàm,

Tùy sự đều khai mở:

Thượng trí chứng pháp hỉ,

Bậc trung sinh thắng giải,

Nông, yếu phát tâm tin

Lời Ngài nhiêu ích khắp.

Khéo nhổ các tà kiến

Dẫn hướng đến Niết-bàn,

Tội cấu được tiêu trừ,

Do Ngài giáng mưa pháp.

Nhứt thiết trí vô ngại

Hằng trụ trong chánh niệm,

 Như Lai thọ ký riêng

Luôn luôn không hư dối,

Chẳng phi xứ, phi thời,

Cũng chẳng chuyển “phi khí”.

Lời Ngài nói không uổng,

Nghe rồi đều chăm tu,

Một đường thắng phương tiện,

Không tạp, tu học được.

Đầu, giữa, cuối đều lành

Không có giáo nào khác.

Như thế một hướng thiện

Cuồng, ngu khởi tâm báng,

Nếu sinh hiềm giáo này

Không oán, ban cho họ.

Trải kiếp vì quần mê,

Trải đủ các khổ độc,

Giáo này là không thiện?

Niệm Phật còn nên tu

Huống được lợi  ích lớn,

Lại nói nghĩa thâm diệu.

Giả sử đầu bị cháy

Trước nên cứu Giáo này.

Tự tại vui Bồ-đề

Thánh đức hằng đạm bạc,

Đều do Giáo này sinh,

Chứng đó, quên lời nói

Thế Hùng chân thật giáo,

Tông tà nghe đều kinh,

Ma vương tâm phiền não,

Trời, người sinh hoan hỉ.

Đại địa không phân biệt

Tà, chính đều được ích,

Tạm nghe điều Phật nói

Giống kim cương đã thành,

Nếu chưa khỏi chuồng, lồng

Rốt sẽ vượt chỗ sinh tử.

Nghe pháp mới nghĩ nghĩa,

Như thật khéo tu hành,

Lần lượt ba tuệ tròn,

Giáo khác đều không thế,

Chỉ mình Ngưu Vương Tiên

 Diệu hợp lý chân viên.

Không chăm tu giáo này

Chắc như là có oán.

Tạm nghe trừ khát ái

Tà kiến sinh tâm tin,

Người nghe sinh hoan hỉ

Nương đó đủ tịnh giới

Đản sinh ứng thời vui

Lớn lên đời đều vui,

Giáo hóa lớn lợi sinh,

Thị hiện diệt, bi cảm.

Tán vịnh trừ các độc,

Nhớ nghĩ cảm yên vui,

Tìm cầu phát tuệ sáng,

Hiểu ngộ tâm tròn sạch,

Người gặp khiến tôn quý,

Kính hầu sinh thắng tâm,

Thừa sự cảm nhân phúc,

Thân phụng trừ ưu khổ;

Đủ Giới luật tịnh khiết,

Tĩnh lự tâm lắng yên,

Trí Bát-nhã viên dung,

Phúc Hằng sa tích tụ.

Ngài bao dung, Ngài dạy,

Và Pháp được Ngài chứng,

Trong giác: Thấy, nghe, nghĩ

Báu này thù thắng nhất;

Trôi nổi, làm bến đỗ 

Hại mình, luôn cứu giúp,

Người sợ, khiến quy y

Khiến họ đến giải thoát;

Giới tịnh thành diệu khí,

Ruộng tốt sinh quả ngon;

Bạn lành hay nhiêu ích

Tuệ mạng do đây thành;

Ban ân và hòa, nhẫn

Người thấy đều vui thích;

Rộng tụ tâm nhân, từ

Công đức không giới hạn,

thân, khẩu không lỗi ác

Ái kính do đó sinh;

Cát tường các nghĩa lợi

Đều nương đức Thiện Thệ,

Đạo Sư khéo khuyến dụ:

Lười, mạn khiến siêng gắng,

Đẳng trì điều tâm cong,

Đường mê về chính đạo;

Người thiện căn thành thục

Ngự giá dùng ba thừa,

Người sầu não khó điều

Do bi nên tạm xả.

Với gặp nạn hay cứu

An lạc khuyên khéo tu.

Thương xót chúng sinh khổ

Lợi lạc các quần phẩm;

Trái, hại khởi từ niệm

Người làm sai sinh lo,

Bạo nghịch khởi bi tâm

Thánh đức không cách tán,

Ân sâu nói chẳng tận

Thế gian đều cùng biết

Ngược lại mà sinh oán

Ngài luôn khởi từ mẫn

Quên thân cứu tất cả

Việc mình chẳng sinh lo.

Với những người đọa lạc

Thân gần vì cứu giúp

Hai thời hành ân đức

Vượt quá các thế gian

Nơi tối thường chiếu sáng

Ngài là tim đèn tuệ

Được trời, người thọ dụng

Tùy loại có khác nhau,

Chỉ vị chính pháp Ngài

Bình đẳng không sai khác,

Không quan tâm dòng họ

Sắc lực và tuổi trẻ

Tùy người có thiện căn

Mong cầu đều toại nguyện.

Rộng hiện sự hiếm có

Vô duyên khởi đại từ

Thánh chúng và trời, người

Đều chắp tay, thân gần

Ôi! Sinh tử đáng sợ!

Phật ra đời sáng rỡ

Lợi ích các chúng sinh

Đều thỏa được ước mong

Người ác cùng chỗ ở

Bỏ vui, lấy buồn, nguy

Hủy báng, não hại thân

Giống như nhận thắng đức;

Vì vật chịu cần khổ

Ngài không nhiễm trước tâm

Đức hiếm có Thế Tôn

Khó dùng danh ngôn nói

Ngài vào đường hiểm ác

Lúa ngựa và ngưu thương

Khổ hành trải sáu năm

An thọ tâm không thoái.

Ngài ở vị tối thắng

Bi mẫn độ quần sinh

Ví gặp người hèn kém

Thân lời càng kính nhường;

Hoặc là chủ tôn quý

Ngài không tâm kiêu mạn

Hạ mình độ chúng sinh

Khiêm cung như người hầu.

Căn cơ muôn vạn loại

Luận khó trăm nghìn mối

Như Lai tiếng từ thiện

Một đáp đều dứt nghi

Ân sâu từng che chở

Bội đức khởi oán sâu

Ngài quán cảnh cực oán

Giống như ân rất nặng,

Oán chuyển hại với Ngài

Ngài với oán chuyển thân,

Kia luôn tìm lỗi Phật

Phật lấy đó làm ân;

Tông tà tật đố thỉnh

Cơm độc với hầm lửa

Bi nguyện hóa ao mát

Cơm độc thành cam lồ;

Dùng Nhẫn điều sân nộ

Lời thật trừ chê báng

Lực từ phục ma oán

Chính trí hàng tà độc

Quần mê từ vô thỉ

Tập ác làm thành tánh

Chỉ Ngài diệu hành tròn

Một niệm đổi thành thiện.

Ôn nhu hàng bạo nghịch

Bố thí phá xan tham

Lời lành phục nói thô

Chỉ Ngài phương tiện khéo

Bẻ kiêu mạn Nan-Đề

Khởi từ với Ương Quật

Điều phục được khó điều

Ai không khen hiếm có.

Chỉ thánh đệ tử Ngài

Pháp vị tâm vui thần

Tòa cỏ lấy làm an

Giường vàng không phải quý.

Khéo biết tính căn dục

Nhiếp hóa tùy cơ duyên

Hoặc đợi có người thỉnh

Hoặc không hỏi tự nói

Bắt đầu từ Thí, Giới

Lần lượt sinh tịnh tâm;

Sau nói pháp chân thật

Rốt ráo khiến viên chứng.

Hãi sợ chốn trôi dạt

Chỉ Phật đáng quy y

Dũng mãnh Đại Từ Tôn

Cứu vớt khắp quần phẩm

Mây thân khắp Pháp giới

Mưa Pháp tẩy cõi trần

Ứng hiện mỗi chẳng đồng

Tùy cơ nên có khác

Khéo tịnh không tranh cãi

Chỉ Ngài phụng sự được

Rộng lợi ích trời, người

Hoặc nên khởi cúng dường.

Thân, khẩu không vọng động

Khéo độ khắp quần mê

Lời nói khéo tương ưng

Đức này chỉ Phật có.

Lâu tu ba nghiệp tịnh

Diệu thụy hiện vô biên

Xét khắp các thế gian

Chưa từng có đức này

Huống với người cực ác

Thuần hành bi tối thượng

Lợi khắp các chúng sinh

Dũng mãnh thêm tinh tiến.

Người Thanh văn biết Pháp

Nơi Ngài thường phụng sự

Giả sử chứng Niết-bàn

Rốt gọi là mang nợ;

Các vị Thánh chúng ấy

Vì mình mà tu học

Do bỏ tâm lợi sinh

Chẳng gọi là trả nợ

Đã giác giấc vô minh

Bi quán khắp các phương

Khởi chuyên cần gánh vác.

Ma oán dấy não hại

Lấy Lực Phật trừ được

Trong công đức vô úy

Đây chỉ bày phần ít

Tâm bi độ tất cả

Thánh ý tuyệt mong cầu

Làm lợi thí tất cả

Mọi sự đều trọn vẹn.

 Như Lai pháp thắng diệu

 Nếu mà dời đổi được

 Thì Điều Đạt, Thiên Tinh

 Không nên vào Giáo này.

 Trong lưu chuyển vô thỉ

 Chẳng lợi ích cho nhau

 Do đó Phật ra đời

 Khai thị, dạy chúng sinh

 Lộc Uyển độ Câu Lân

 Kiên Lâm độ Tu Bạt

 Cõi này hết căn duyên

 Oan trái không còn sót.

 Pháp luân chuyển đã lâu

 Giác ngộ các quần mê

Hằng sa người thọ học

Ba Hữu đều được lợi

Dùng Kim Cang thắng định

Tự phá ngục chắc thân

Không bỏ tâm đại bi

Tự hóa còn phân bố

Hai lợi làm đã đủ

Hai thân Sắc, Pháp tròn

Cứu nhiếp nhất-xiển-đề

Song Lâm hiển Phật tính

Tâm bi suốt ba Hữu

Hình sắc ứng mười phương

Phân thân làm lúa gạo

Ngài bèn vào viên tịch

Lành thay! Hành kỳ đặc

Thân công đức hiếm có

Các pháp môn Đại Giác

Thế gian chưa từng có

Ân tuôn khắp hàm thức

 Thân, ngữ luôn lắng trong

 Phàm ngu bội Thánh ân

 Với Ngài khởi chê, oán.

Tạng báu pháp tụ thật không bờ

 Nguồn đức, biển phúc thật khó dò

 Nếu có chúng sinh từng lễ Ngài

Lễ ấy cũng gọi là phúc lành

Công thần đức Thánh không cùng tận

Con trí kém, dụ như bụi nhỏ

Muốn khen núi công đức Như Lai

Ngước lên, khiếp sợ, nên dừng lại

Cảnh vô lượng, vô số, vô biên

Lý khó nghĩ, khó thấy, khó chứng

Chỉ mình Thánh trí Phật biết rõ

phàm ngu có thể xưng tán!

Một lông, một tướng đầy pháp giới

Một hành, một đức suốt nguồn tâm

Sạch trong rộng lớn như ao thơm

Chữa được chúng sinh phiền não khát

Con khen biển công đức Mâu-Ni

Nương nghiệp thiện này đến Bồ-Đề

Nguyện khắp hàm sinh phát thắng tâm

Vĩnh viễn lìa thức phàm ngu vọng.

 

Một trăm năm mươi bài kệ xưng tán Phật

***

 

Phật Tử Thanh Phi sửa lại lỗi chính tả.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27180)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21770)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22233)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23605)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20056)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21949)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24757)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18990)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24766)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30977)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23992)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27765)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26517)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21321)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23231)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38138)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18802)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19978)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19050)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23173)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23887)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22816)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22917)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29583)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20646)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18711)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15848)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18863)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19685)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20159)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19957)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18127)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22944)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34168)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16424)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16920)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39255)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26080)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20099)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18859)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24066)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29147)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22904)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30967)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21012)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26857)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20679)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26268)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23328)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19820)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24685)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30047)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20227)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20408)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15145)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15840)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23903)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 19863)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant