Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 2: Thương Chủ

03 Tháng Chín 201607:57(Xem: 4839)
Phẩm 2: Thương Chủ

KINH ĐẠI BI

Tam tạng pháp sư Na Liên Đề Da Xá, người nước Thiên-trúc, 
dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, 
vào thời Cao-Tề (Bắc-Tề, 550-577).
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn,
tại Canada, năm 2016.

Kinh Đại Bi 2

 

Phẩm 2

THƯƠNG CHỦ

 

Lúc bấy giờ, con của ma vương tên là Thương Chủ, vốn đã có lòng kính tin thâm sâu đối với đức Phật từ lâu, nay nghe Phật sắp nhập niết bàn thì rất đau buồn, vội vàng đến chỗ Phật ngự. Sau khi đảnh lễ đức Phật, ông lui xuống đứng một bên, bạch rằng:

“Cúi xin đức Thế Tôn thương xót chúng sinh, vì đem lại an lạc cho chúng sinh, vì cứu hộ thế gian, làm lợi ích cho khắp trời, người, mà trụ thế lâu một kiếp, không vội nhập niết-bàn! Con cũng vì thương xót trời, người, mà thỉnh cầu như vậy. Bạch đức Thế Tôn! Xin đức Thế Tôn đừng để cho chúng sinh sớm trở thành những kẻ mù tối, không ai dạy dỗ, không ai hướng dẫn, không ai cứu hộ, không có chỗ nương tựa, không có nơi hướng về!”

Đức Phật dạy:

“Này Thương Chủ! Trước đây, thân phụ của ông là Ba Tuần, đã thỉnh cầu Như Lai nhập niết-bàn; và Như Lai đã tùy thuận theo ý của thân phụ ông mà hứa nhập niết bàn. Bởi vậy, hôm nay đã đến lúc Như Lai thực hiện lời hứa ấy mà nhập niết-bàn.”

Thương Chủ lại thưa:

“Bạch đức Thế Tôn! Ông ấy là ma vương Ba Tuần, không phải là thân phụ của con, cũng không phải là bạn tốt của con! Ông ấy thường bảo con giết hại, cho nên, đó là ác tri thức, là oan gia của con. Ông ấy không muốn cho con được an vui, hòa hợp, an ổn, mà chỉ muốn con làm các việc cực ác, hủy báng trời người để gây oán kết thù; không muốn làm lợi ích cho thế gian, mà chỉ muốn làm việc hủy diệt. Ông ấy luôn luôn muốn thổi tắt cây đuốc lớn, ngọn đèn sáng của bậc Đại Trí. Bạch đức Thế Tôn! Nếu có người nói lời chân thật rằng: [Trong chốn trời, người, có xuất hiện một kẻ độc ác cùng cực.], thì phải biết rằng, kẻ đó chính là ma Ba Tuần vậy. Bạch đức Thế Tôn! Nếu có người nói lời chân thật rằng: [Có kẻ không phát tâm làm lợi ích cho mình, làm lợi ích cho người khác, làm lợi ích cho nhiều chúng sinh.], thì phải biết rằng, kẻ đó chính là ma Ba Tuần vậy. Bạch đức Thế Tôn! Nếu có người nói lời chân thật rằng: [Trong thế gian có kẻ không muốn làm lợi ích cho trời, người, a-tu-la, sa-môn, bà-la-môn, vân vân; cũng không muốn cho mọi người được hòa hợp, an ổn, mà chỉ muốn tất cả đều phải chịu khổ não.], thì phải biết rằng, kẻ đó chính là ma Ba Tuần vậy. Bạch đức Thế Tôn! Con từng được nghe đức Thế Tôn dạy rằng, có hai hạng người: một là đúng pháp, hai là không đúng pháp. Con nghĩ rằng, lời hứa nhập niết-bàn của đức Thế Tôn đối với Ba Tuần là không đúng pháp; cúi xin đức Thế Tôn đừng giữ lời hứa đó. Xin đức Thế Tôn thương xót chúng sinh mà bỏ lời hứa đó, trụ thế một kiếp để đem lại lợi íchan ổn cho trời người và tất cả chúng sinh. Xin đức Thế Tôn đừng nhập niết-bàn quá sớm!”

Đức Phật bảo Thương Chủ:

“Lành thay! Lành thay! Nếu làm lợi ích cho chúng sinh thì đúng là phải như thế. Này Thương Chủ! Nếu có người dâng hiến phẩm vật lên đức vua, hoặc có người hiến tặng phẩm vật cho vị vương tử hay các vị đại thần, hoặc có người ra sức phòng vệ quốc gia, thành ấp, xóm làng, thì những người này sẽ được vua ban cho chức tước, phước lộc; đến cả con cháu, họ hàng của họ cũng được hưởng ân sủng của vua. Này Thương Chủ! Hôm nay ông đã phát lòng tin trong sạch đối với Như Lai, bậc Pháp Vương vô thượng. Với lòng tin trong sạch đó, ông đã gieo trồng căn lành nơi đất Phật, và ông sẽ hưởng được phước báo. Bây giờ Như Lai nói rõ cho ông biết. Này Thương Chủ! Do ông có căn lành phát khởi lòng tin trong sạch đối với Như Lai, sau khi Như Lai diệt độ, trong đời vị lai, ông sẽ là một vị Phật Bích-chi, có danh hiệu là Bi Mẫn. Này Thương Chủ! Sau khi Như Lai nhập niết-bàn, và khi chánh pháp đã diệt rồi, thì ma Ba Tuần rất vui mừng. Do tâm vui mừng đó mà Ba Tuần sẽ rơi khỏi cung ma, đọa vào địa ngục A-tì, chịu muôn vàn đau khổ. Vì sao vậy? Vì ma Ba Tuần đã sinh tâm vui mừng khi thấy ngọn đèn chánh pháp đã ẩn mất! Này Thương Chủ! Nếu có người nói lời chân thật rằng: [Có người khởi tâm làm ác để tự hại mình, tự hủy hoại mình.], thì nên biết rằng, người đó chính là ma Ba Tuần vậy. Vì sao thế? Này Thương Chủ! Sau khi Như Lai diệt độ, suốt trong thời kì chánh pháp còn trụ thế, Ba Tuần luôn ở tại cung ma; đến khi chánh pháp diệt mất, Ba Tuần vô cùng đắc ý, vui mừng hớn hở, thì liền trong khoảnh khắc, bị rơi khỏi cung ma, đọa vào địa ngục A-tì! Này Thương Chủ! Ví như có người trèo lên một cây đầy hoa trái, hái lấy những trái ngon nhất để dùng; hái xong lại chặt đứt cái cành mà mình đang ngồi. Này Thương Chủ! Ý ông thế nào? Người kia lúc ấy có còn ngồi được trên cành cây đã bị chặt đứt nữa không? Lại nữa, người kia đang ngồi trên cây ăn trái một cách an ổn thích thú, bỗng dưng chặt đứt đi cái cành mà mình đang ngồi, thì có thể nói ông ta là người có trí chăng?”

Thương Chủ thưa:

“Dạ thưa không, bạch đức Thế Tôn!”

Đức Phật dạy tiếp:

“Ma Ba Tuần cũng vậy, luôn luôn mong cho Như Lai nhập niết-bàn, luôn luôn muốn hủy diệt chánh pháp do Như Lai nói. Này Thương Chủ! Cho đến bao giờ chánh pháp của Như Lai còn trụ thế, thì ma Ba Tuần vẫn ở trong cung ma; đến khi chánh pháp của Như Lai diệt mất, thì Ba Tuần lấy làm đắc ý, vui mừng hớn hở, cho nên tức khắc bị rơi khỏi cung ma, đọa vào địa ngục A-tì. Này Thương Chủ! Trong thí dụ trên, người đang ngồi trên cây lại chặt đứt cái cành ông ta đang ngồi, thế là tự hại mình; ma Ba Tuần cũng vậy, vì muốn hại người khác mà thành ra tự hại mình. Này Thương Chủ! Sau này, khi ma Ba Tuần đã đọa vào địa ngục A-tì, chịu đau khổ cùng cực, nếu lúc đó ông ấy khởi tâm nghĩ nhớ tới Như Lai, mà tự nói rằng: [Đức Như Lai là bậc chánh biến tri, bậc nói lời chân thật, nói lời không sai quấy; là bậc thân hành động theo luật nghi, miệng nói năng theo luật nghi, ý suy nghĩ theo luật nghi. Ngài là bậc thân làm việc lành, miệng nói việc lành, ý nghĩ việc lành; cho nên có được phước báo an vui, xứng ý; còn ta là kẻ thân làm việc ác, miệng nói việc ác, ý nghĩ việc ác, cho nên phải chịu quả báo đau khổ, không xứng ý. Ngày xưa ta đối với Ngài, thân hành động chỉ tương ứng với việc ác, miệng nói năng chỉ tương ứng với việc ác, ý suy nghĩ chỉ tương ứng với việc ác; do nghiệp báo đó mà nay phải đọa địa ngục, phải chịu đau khổ cùng cực như thế này!] Bấy giờ ma Ba Tuần, do nhớ nghĩ đến những điều Như Lai đã nói mà phát khởi lòng tin trong sạch. Do đã có lòng tin trong sạch đối với Như Lai, mà ngay lúc đó, ma Ba Tuần mạng chung; và từ địa ngục ông ấy được sinh lên cõi trời Đao-lợi. Vì sao vậy? Này Thương Chủ! Nếu người có ác tâm, làm điều tội lỗi đối với Như Lai, khi mạng chung sẽ đọa vào địa ngục; nếu người đem từ tâm cúng dường Như Lai, không gây ra lỗi lầm gì, khi mạng chung sẽ sinh vào những nơi tốt đẹp ở các cõi trời, người. Người ấy do có căn lành mà sẽ được gặp chư Phật; gặp được chư Phật rồi, người ấy lại tiếp tục gieo trồng căn lành; cứ tuần tự như thế cho đến khi đạt được quả tịch diệt niết-bàn. Này Thương Chủ! Ông đã có lòng tin trong sạch đối với Như Lai; và do căn lành đó mà khi đức Phật Di Lặc ra đời, ông sẽ được gặp Ngài. Được gặp Ngài rồi, ông sẽ có đầy đủ khả năng giáo hóa, khiến cho những chúng sinh còn mê ngủ, buông lung được tỉnh ngộ. Ông sẽ bảo họ rằng: [Quí vị nên dõng mãnh làm các việc lành. Gặp thời đức Phật ra đời là việc rất khó, như hoa ưu đàm, phải trải qua thời gian lâu dài mới nở một lần! Lại nữa, thân người rất khó được, tám nạn rất khó tránh. Được gặp Phật ra đời ở nơi trung châu đại quốc lại càng khó khăn vô cùng. Vì vậy cho nên quí vị hãy cẩn thận, chớ nên buông lung; hãy tinh tấn tu hành, về sau khỏi hối hận!] Này Thương Chủ! Ông bẩm thọ giáo pháp của đức Phật Di Lặc; ông nhiếp lãnh quốc độnhân dân của đức Pháp Vương vô thượng ấy, và thường đem tâm từ, tâm không độc ác, tâm không oán cừu, tâm thương xót, tâm vui vẻ, tâm che chở, để hộ trì quốc độdưỡng dục nhân dân ấy. Do căn lành này mà ông sẽ được bổ xứ ở cung ma, trở thành một vị chúa tể giàu sang, tự tại. Này Thương Chủ! Ông nhờ có căn lành mà thọ hưởng được phước báo lớn lao ở chốn trời người; trải qua tám mươi kiếp như thế, cuối cùng ông sẽ chứng quả Phật Bích-chi, danh hiệu là Bi Mẫn. Vì sao ông được như vậy? Này Thương Chủ! Vì khi vừa nghe tin Như Lai sắp nhập niết- bàn, ông liền phát khởi lòng tin trong sạch đối với Như Lai, vì khởi tâm thương xót chúng sinh, vì mong muốn cho chúng sinh được an vui, ông đã thỉnh cầu Như Lai trụ thế dài lâu mà khoan nhập niết-bàn; rồi ở trong thời kì pháp vận của đức Phật Di Lặc, ông lại thương xót các chúng sinh còn mê lầm, buông lung, mà giáo hóa, thức tỉnh họ, khiến họ quay về sống với pháp lành. Do nhân duyên đó mà ông được thọ kí làm Phật Bích-chi. Đó là quả báo thiện lành, do căn lành ông có được từ việc thỉnh cầu Như Lai trụ thế dài lâu, khoan nhập niết-bàn. Ông hãy vui mừng ưng ý!”

Lúc bấy giờ Thương Chủ lại bạch lên đức Phật:

“Bạch đức Thế Tôn! Nếu đức Thế Tôn không nhận lời thỉnh cầu của con, mà vẫn quyết định nhập niết-bàn, thì con nguyện từ nay cho đến ngày nào chánh pháp còn trụ thế, con xa lìa năm dục, chuyên giữ gìn đạo hiếu, không ham du hí, không mặc áo đẹp, không dùng tràng hoa, không xoa bột thơm, cũng không thọ hưởng phước báo của trời người. Vì sao vậy? Vì đức Thế Tôn, ánh sáng quí báu của chúng sinh, sắp xa lìa con, không còn hội họp, con hoàn toàn không còn trông thấy; vậy thì con đâu còn có gì thích thú để vui cười! Ánh sáng của ngọn đèn trí tuệ, cây đuốc trí tuệ lớn nhất, sắp ẩn mất rồi, thì con đâu còn gì nữa để vui mừng! Mặt trời đại trí với vô lượng tia sáng, có năng lực diệt trừ vô minh tối tăm, sắp tắt mất rồi, thì con còn có gì để hân hoan xứng ý, để thích thú vui cười! Viên ngọc quí của chúng sinh như thế mà con sắp phải xa lìa rồi! Đức Thế Tôn là bậc đo lường được căn tánh chúng sinh, không bỏ sót chúng sinh, cho chúng sinh ánh sáng, không khiến cho chúng sinh gây tội lỗi, không làm cho chúng sinh ngu si; là bậc tối thượng của chúng sinh, không có chúng sinh nào tương tợ, không có chúng sinh nào sánh bằng; là bậc cứu độ tất cả chúng sinh, được chúng sinh cúng dường; là bậc điều phục chúng sinh, bậc thương xót chúng sinh, bậc nói lời chân thật, nói đúng thời, nói trước sau như một; là bậc an trú trong tâm đại từ bi, tâm không chướng ngại đối với chúng sinh, tâm luôn bình đẳng đối với chúng sinh; là bậc không hí luận, không chấp trước vào ngã và ngã sở hữu, không cất chứa, không ỷ lại, không quanh co, không hiểm hóc, không cáu bẩn; là bậc cứu giúp chúng sinh, hướng dẫn chúng sinh, hóa độ chúng sinh, phòng hộ cho chúng sinh, cởi trói cho chúng sinh, dưỡng dục chúng sinh, dạy dỗ chúng sinh, giúp chúng sinh nhớ nghĩ tới căn lành của mình, khiến cho chúng sinh tỉnh ngộ; là bậc nhổ mũi tên độc, bậc y vương trị tâm bệnh, bậc cho thuốc tốt; là bậc rốt ráo vượt thoát biển khổ, bậc đạo sư thuyết pháp; là vị thương chủ sắp khởi hành, vị hướng đạo chỉ cho chỗ nước cạn, người giữ tay lái, người cầm đuốc, người làm ra ánh sáng và chiếu ra ánh sáng rực rỡ; là bậc dẫn đường đưa người đến quốc độ an ổn, xa lìa nơi hoang sơ nguy hiểm; là bậc xa lìa trọn vẹn tham sân si, xa lìa kiêu mạn, xa lìa hết mọi kết sử, mọi phiền não; là bậc điều ngự trượng phu vô thượng, bậc có đầy đủ mười lực, bốn điều không sợ sệt, mười tám pháp không cùng chung; là bậc có đầy đủ vô lượng pháp tạng, bậc thí chủ tối thắng luôn làm cho chúng sinh vui vẻ, bậc luôn an trú trong cảnh giới đại định, bậc trí tuệ vô luợng, trí tuệ không chướng ngại, luôn an trú trong cảnh giới đại tuệ; là bậc đã vượt qua khỏi vũng bùn lầy, đã đến bờ bên kia, an trúbờ bên kia; là bậc an trú ở nơi không còn sợ sệt, dứt trừ nỗi sợ sệt cho tất cả chúng sinh, an ủi tất cả chúng sinh; là chỗ nuơng tựa vững vàng, bền chắc cho chúng sinh như thế, mà sau nửa đêm hôm nay con sẽ phải biệt li, không còn thấy trở lại được nữa! Bạch đức Thế Tôn! Con sẽ không còn được nghe tiếng rống sư tử của đức Thế Tôn ở trước đại chúng nữa, thì con còn có gì để hân hoan xứng ý, để thích thú vui cười! Bạch đức Thế Tôn! Như có những người được hưởng phước lộc của vua, sau khi vua mạng chung rồi, lòng rất buồn khổ. Họ biết ơn vua, nhớ nghĩ đến ơn vua, giữ lòng trung hiếu đối với vua; hoặc một ngày, hai ngày, cho đến bảy ngày, hoặc nửa tháng cho đến một tháng, họ nhớ tưởng vua mà rơi nước mắt. Bạch đức Thế Tôn! Con cũng như vậy. Sau khi đức Thế Tôn diệt độ, trong suốt thời gian chánh pháp còn trụ thế, con xa lìa năm dục, chuyên giữ gìn đạo hiếu, không ham du hí, không mặc áo đẹp, không dùng tràng hoa, không xoa bột thơm, cũng không thọ hưởng phước báo của trời người.”
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22435)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16092)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15077)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 19076)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14517)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18688)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14490)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13659)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13614)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11908)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13327)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13724)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 14007)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13309)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15075)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16231)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11152)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16505)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 12003)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17675)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12931)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13762)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12930)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14921)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16467)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13208)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12161)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12858)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12975)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12852)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14253)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14184)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16563)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12430)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14437)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11393)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11095)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13251)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13945)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13226)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13064)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13561)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12806)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10297)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 14034)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10273)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13769)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16335)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 12047)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 13042)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11716)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12735)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10878)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11054)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 11003)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11951)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12856)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11152)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12676)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11392)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant