Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 6: Hộ Trì Chánh Pháp

03 Tháng Chín 201607:57(Xem: 5821)
Phẩm 6: Hộ Trì Chánh Pháp

KINH ĐẠI BI

Tam tạng pháp sư Na Liên Đề Da Xá, người nước Thiên-trúc, 
dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, 
vào thời Cao-Tề (Bắc-Tề, 550-577).
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn,
tại Canada, năm 2016.

Kinh Dai Bi

 Phẩm 6
HỘ TRÌ CHÁNH PHÁP

 


Lúc bấy giờ đức Phật lại bảo tôn giả A Nan:

“Thầy đừng đau buồn nữa! Chánh pháp của Như Lai sẽ được lưu bố rộng rãi để làm lợi ích cho các chúng trời, người. Này A Nan! Sau khi Như Lai diệt độ, ở núi Ưu-lâu-mạn-trà, thuộc thành Ma-du-la, có ngôi già-lam tên Na-trì-ca. Nơi đó sẽ có thầy tì-kheo tên Tì Đề Xa, có thần thônguy lực lớn, có đức vô úy, nghe nhiều học rộng, có trí tuệ chân chánh, chứng được đạo quả, giữ gìn Kinh, Luật, Luận; đối với những người tu hành phạm hạnh thì chỉ bày, dạy dỗ, khiến cho đại chúng đạt được lợi lạc, và hoan hỉ với các thành tựu của đại chúng; nói pháp không biết mệt mỏi. Thầy tì-kheo kia sẽ lưu bố rộng rãi chánh pháp của Như Lai để đem lại lợi ích cho các hàng trời, người.

Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, cũng ở ngôi già-lam Na-trì-ca trong núi Ưu-lâu-mạn-trà, sẽ có thầy tì-kheo tên là Đề Tri Ca, có thần thônguy lực lớn, đối với những người tu hành phạm hạnh thì nói pháp không mệt mỏi; sẽ khiến cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi, đem lại lợi ích cho các hàng trời, người.

Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, bên cạnh núi Ưu-lâu-mạn-trà còn có ngọn núi tên Ưu-thi-la, ở đó có bốn muôn vị tì-kheo vân tập. Quí vị ấy có thần thônguy lực lớn, có đức vô úy, nghe nhiều học rộng, đầy đủ khả năng, có trí tuệ chân chánh, chứng được đạo quả, giữ gìn Kinh, Luật, Luận; vị nào cũng vậy, đối với những người tu hành phạm hạnh thì chỉ bày, dạy dỗ, khiến cho đại chúng đạt được lợi lạc, và hoan hỉ với các thành tựu của đại chúng; nói pháp không biết mệt mỏi. Các thầy tì-kheo kia đều tu hành phạm hạnh, đầy đủ thần thông biến hóa, sẽ lưu bố rộng rãi chánh pháp của Như Lai để đem lại lợi ích cho các hàng trời, người.

Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, bên cạnh núi Ưu-lâu-mạn-trà sẽ có một thầy tì-kheo tên Ưu Ba Cúc Đa, cũng đầy đủ khả nănguy lực lớn như vậy; cũng tu hành phạm hạnh, lưu bố rộng rãi chánh pháp của Như Lai, làm lợi ích cho các hàng trời, người. Nơi ấy cũng sẽ có một ngàn vị A-la-hán, cùng với tám muôn tám ngàn vị tì-kheo tụ hội, cùng bố-tát với nhau một chỗ, cùng làm một pháp yết-ma. Họ đối với nhau bằng tâm chân thành, và cùng ghi nhận những thành tựu của nhau. Họ đều tu hành phạm hạnh, đầy đủ thần thông biến hóa, lưu bố rộng rãi chánh pháp của Như Lai, làm lợi ích cho các hàng trời, người.

Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Thầy tì-kheo Ưu Ba Cúc Đa ấy, cùng với các đệ tử, đều có khả năng nói pháp, khiến cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi trong khắp các hàng trời, người.

Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, ở thành Ba-li-phất có ngôi già-lam tên Bạt-đa-ni, nơi đó có thầy tì-kheo tên A Du Bà Cúc Đa, tu hành phạm hạnh, đầy đủ ba minh, sáu thần thông, tám bước giải thoát, thiền địnhtrí tuệ; có uy lực lớn, làm cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi, đem lại lợi ích cho các hàng trời, người.

Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, cũng ở thành Ba-li-phất, có ngôi già-lam tên Cưu-cưu-tra, nơi đó có thầy tì-kheo tên Uất Đa La, tu hành phạm hạnh, có thần thônguy lực lớn, cũng có đầy đủ khả năng làm cho chánh pháp của Như Lai lưu bố rộng rãi, đem lại lợi ích cho các hàng trời, người.

Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Chánh pháp của Như Lai sẽ được lưu bố rộng rãi để làm lợi ích cho các hàng trời, người. Này A Nan! Sau khi Như Lai diệt độ, ở nước Ương-già sẽ có các thầy tì-kheo thiết lập đại hội Vô-già, có vị thượng tọa tên Thiết Đà Sa Trà và hơn một vạn ba ngàn vị A-la-hán tụ hội. Các vị này tu hành phạm hạnh, đều có thần thônguy lực lớn, đầy đủ khả năng, nói pháp không biết mệt mỏi, khiến cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi, làm lợi ích cho các hàng trời, người.

Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, ở thành Kim-bát-tất-đà sẽ có hai thầy tì-kheo, vốn thuộc dòng Bà-la-môn đi xuất gia; một thầy tên Tì Đầu La, một thầy tên San Xà Da, đều tu hành phạm hạnh, có thần thônguy lực lớn, đầy đủ khả năng, nói pháp không biết mệt mỏi, khiến cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi, làm lợi ích cho các hàng trời, người.

Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, ở thành Bà-kê-đa sẽ có thầy tì-kheo tên Đại Tinh Tấn, tu hành phạm hạnh, có thần thônguy lực lớn, đầy đủ khả năng, nói pháp không biết mệt mỏi, khiến cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi trong các hàng trời, người.

Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, sẽ có thầy tì-kheo tên Mạt Điền Đề, đầy đủ ba minh, sáu thần thông, tám bước giải thoát, thiền địnhtrí tuệ, có uy lực lớn, đối với những người tu hành phạm hạnh thì nói pháp không biết mệt mỏi. Bấy giờ ở trong sông Kế-tân của miền Bắc-Thiên-trúc có vô số các loài có sức mạnh như rồng, dạ-xoa, Càn-thát-bà, vân vân, cư trú. Tì-kheo Mạt Điền Đề bèn đến con sông ấy, dùng thần thông biến hóa hàng phục các loài ấy, khiến cho tất cả đều sinh lòng kính tin chánh pháp. Sau đó, tì-kheo Mạt Điền Đề bèn khuyến hóa dân chúng sống trong vùng sông Kế-tân cùng nhau kiến lập một ngôi già-lam, có nhiều ngàn chư vị Thanh-văn qui tụ về cư trú, tu tập. Thầy tì-kheo Mạt Điền Đề này, trong mọi thời khắc, đều làm cho ngôi già-lam ấy thành một đạo tràng trang nghiêm thanh tịnh; khiến cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi trong các hàng trời, người. Công đức của thầy tì-kheo Mạt Điền Đề, Như Lai không thể dùng lời gì để tán dương cho cùng tận.

Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, ở nước Càn-đà-la thuộc miền Bắc-Thiên-trúc, sẽ có thầy tì-kheo tên là Ca Diếp, có thần thônguy lực lớn, có đức vô úy, nghe nhiều học rộng, giữ gìn Kinh, Luật, Luận; có trí tuệ chân chánh, chứng được đạo quả; có đầy đủ khả năng, làm cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi. Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, tại thành Đắc-xoa-thi-la ở miền Bắc-Thiên-trúc, sẽ có một vị trưởng giả tên Xà Tri Ca, tướng tốt và đoan chánh không ai bằng, giàu có tột bực, rất nhiều của cải châu báu, lại có đầy đủ phước đứctrí tuệ, danh tiếng vang động bốn phương. Ông trưởng giả ấy có lòng tin sâu xa đối với Như Lai và chư vị Thanh-văn, cung kính cúng dườngtôn trọng, xưng tán; siêng năng tích tập thiện căn giác ngộ, có đầy đủ khả năng làm cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi trong các hàng trời, người. Trong đời vị lai, khi mãn một ngàn kiếp, ông sẽ thành bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, danh hiệu của Phật là Phổ Quang, thế giới của Phật tên là Cụ-đại-trang-nghiêm, kiếp đó tên là Tạo-hiền. Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, ở miền Bắc-Thiên-trúc có kinh thành tên Phú-ca-la-bạt-đế, nhân dân giàu có, an ổn. Nơi đó có nhiều vị Bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ thọ trì kinh điển, có lòng tin sâu xa đối với Như Lai và chư vị Thanh-văn, cung kính cúng dườngtôn trọng, xưng tán. Chư vị Thanh-văn ở nơi đó có vô số đệ tử, đều có thần thônguy lực lớn. Nơi đó cũng có nhiều vị trưởng giả, cư sĩ, nghe nhiều học rộng, có đức vô úy, có trí tuệ chân chánh, chứng được đạo quả.

Này A Nan! Ở tại kinh thành Phú-ca-la-bạt-đế kia, những người cư sĩ tại gia, sau khi mạng chung thì sinh lên cõi trời Đâu-suất, còn những người xuất gia thì lại đọa vào địa ngục. Vì sao vậy? Vì những ngưởi xuất gia ấy không giữ giới, không giữ luật nghi.

Này A Nan! Những người Ba-la-môn, trưởng giả, cư sĩ ở kinh thành Phú-ca-la-bạt-đế kia sẽ nghĩ như vầy: Chánh pháp của đức Phật Thích Ca Mâu Ni chắc chắn sẽ ẩn mất, vì sao? Vì chư vị tì-kheo tham cầu lợi dưỡng, hủy phạm cấm giới, tâm ý tán loạn, không thích ở chỗ nhàn tịnh, bỏ mất niềm vui thiền định; thường qua lại trong bốn chúng để cùng nhau làm những việc phá giới trái đạo; trong việc giao thiệp với các vị Bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩthân hữu thì không cung kính tôn trọng nhau; biếu tặng cơm nước hoa trái cho nhau không theo đúng luật nghi; dâm loạn với vợ người mà không biết hổ thẹn. Các vị Bà-la-môn, trưởng giảcư sĩ kia, khi nghe thấy chư vị tì-kheo làm những việc sai trái với chánh pháp như vậy thì ưu phiền và sợ sệt vô cùng, than thở với nhau rằng: Chánh pháp của Phật sắp ẩn mất rồi chăng! Ngay vào lúc đó, cũng ở trong kinh thành Phú-ca-la-bạt-đế, xuất hiện một vị ưu-bà-tắc tên là Pháp Tăng, có thần thông, phước đứcuy lực lớn, có đức vô úy, nghe nhiều học rộng, gìn giữ Kinh, Luận, khéo dùng phương tiện thiện xảo, có trí tuệ chân chánh, chứng được đạo quả. Bấy giờ, vị ưu-bà-tắc ấy, vì muốn cho các vị Bà-la-môn, trưởng giảcư sĩ kia sinh tâm kính tín, bèn bay lên hư không, chỉ bày, dạy dỗ, nói rằng: [Thưa quí vị! Xin hãy cẩn thận, đừng sợ sệt, đừng nghi ngờ, đừng lo lắng! Chánh pháp của đức Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn còn đang trụ thế. Xin quí vị hãy phát tâm tinh tấn làm các nghiệp lành, những người chưa ngộ thì giúp cho họ được ngộ, những người chưa đạt thì giúp cho họ được đạt, những người chưa chứng thì giúp cho họ được chứng. Thánh pháp nay vẫn còn đây, xin quí vị hãy mau tìm cầu!] Các vị Bà-la-môn, trưởng giảcư sĩ kia nghe được những lời ấy thì vui mừng vô cùng, bèn phát tâm bố thí, tạo các công đức; đối với xá-lợi của Như Lai thì gìn giữ trang nghiêm; đối với chư vị Thanh-văn thì siêng năng cúng dường, nghe phápthọ trì đọc tụng, gìn giữ cấm giới, siêng tu thiền định. Các vị Bà-la-môn, trưởng giảcư sĩ ấy, vì được vị ưu-ba-tắc Pháp Tăng kia chỉ bày, dạy dỗ, khiến cho được lợi lạc, họ đều qui hướng về con đường thánh thiệnđạo quả niết-bàn.

Này A Nan! Vị ưu-bà-tắc Pháp Tăng kia cũng có đầy đủ khả năng làm cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi, đem lại lợi ích cho các hàng trời, người. Như thế đó, này A Nan! Sau khi Như Lai diệt độ, cũng sẽ có nhiều người thế tục, có lòng kính tin sâu xa đối với chánh pháp của Như Lai. Những người này, trong quá khứ, đã từng cúng dường, gieo trồng căn lành nơi vô lượng chư Phật; bây giờ, đối với xá-lợi của Như Lai thì giữ gìn trang nghiêm, đối với chư vị Thanh-văn thì cung kính cúng dường, tôn trọng, xưng tán. Họ cũng làm cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi, đem lại lợi ích cho các hàng trời, người.

Này A Nan! Sau khi Như Lai diệt độ, trong đời vị lai, ở miền Bắc-Thiên-trúc sẽ có vị tì-kheo tên Kì Bà Ca xuất hiện ở đời. Vị tì-kheo này, trong đời quá khứ đã từng cung kính cúng dường, gieo trồng căn lành nơi vô lượng chư Phật; bây giờ phát khởi lòng tin sâu xa nơi giáo pháp đại thừa. Vì thương xót, muốn đem lại lợi íchan ổn cho chúng sinh, nên tì-kheo Kì Bà Ca phát tâm tu họcgiữ gìn pháp tạng Bồ-tát, xưng dương và phát triển giáo pháp đại thừa. Vị tì-kheo ấy thường xem xét các ngôi tháp miếu thờ hình tượng và xá-lợi của Như Lai, thấy nơi nào hư hoại thì sửa sang, dùng vàng để trang trí, dựng tràng phan, bảo cái, treo lưới có gắn phong linh, phát ra âm thanh vi diệu; lại tạo vô số hình tượng của Như Lai, xây cất thêm nhiều tháp miếu, làm cho các chúng trời, người phát khởi lòng tin và kính ngưỡng. Vì muốn được đầy đủ căn lành giác ngộ, vì thương xót chúng sinh, vì nhiếp thọhộ trì chánh pháp của Như Lai, vì muốn giúp cho những người chưa có lòng kính tin sẽ phát khởi lòng kính tin và tinh tấn tu hành, và cũng vì muốn giúp cho nhiều người có cơ hội gieo trồng căn lành, tì-kheo Kì Bà Ca sẽ thiết lập đại hội Vô-già.

Này A Nan! Vào thời bấy giờ có nhiều tì-kheo không giữ gìn cấm giới, làm nhiều việc phi pháp, không thích ở nơi nhàn tịnh, bỏ mất niềm vui thiền định, phá giới, trái đạo, hay tranh cãi; ham cất chứa tài vật, mỗi người chiếm riêng một phòng, thường qua lại với người thế tục, xa rời Phật pháp, không có lòng kính trọng đối với những vị tu hành phạm hạnh; những tì-kheo ấy chỉ có hình tướng giống như sa-môn mà thôi! Trong khi đó, cũng có một số ít tì-kheo chuyên cần tinh tấn, tránh xa những nơi ồn ào, luôn có chánh niệm, nhất tâm định tuệ, thường an trú nơi pháp lành, muốn ít, biết đủ, vui với hạnh tu xin ăn, an trú trong dòng giống Thánh nhân, có đức vô úy, nghe nhiều học rộng, giữ gìn Kinh, Luật, Luận. Lúc bấy giờ, tì-kheo Kì Bà Ca giúp các tì-kheo phi pháp kia được mặc áo pháp, tâm được chuyển hóa trở nên nhu thuận, các căn không khiếm khuyết, đầy đủ lòng tin sâu xa, được kính trọng tột bậc. Những người mặc áo pháp đều khởi tâm giữ giới, làm phước điền, thực hành hạnh bố thí, tu tập các căn lành. Thầy tì-kheo Kì Bà Ca kia, sau khi tu tập vô lượng căn lành giác ngộ thì mạng chung, sinh sang thế giới của đức Phật Vô Lượng Thọ ở phương Tây, cách đây hơn trăm ngàn ức cõi Phật. Ở đó, thầy tì-kheo Kì Bà Ca lại tiếp tục tu hành phạm hạnh, gieo trồng căn lành trải qua tám mươi ức đức Phật. Do căn lành ấy, trải qua chín mươi chín ức kiếp trong đời vị lai, thầy tì-kheo Kì Bà Ca sẽ thành bậc Chánh Giác, Phật hiệuVô Cấu Quang, ở thế giới tên là Nhất-thiết-công-đức-trang-nghiêm.

Này A Nan! Thầy tì-kheo Kì Bà Ca kia cũng làm cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi trong các hàng trời, người. Này A Nan, thầy chớ nên lo buồn! Giáo pháp của Như Lai sẽ được lưu bố rộng rãi, làm cho các hàng trời, người phát khởi lòng tin và kính ngưỡng. Này A Nan! Sau khi Như Lai diệt độ, trong đời vị lai sẽ có một nước ở vùng biên địa, tên là Xá-ma. Vua của nước đó tên là Đại Thí, phát khởi lòng tin thanh tịnh đối với giáo pháp của Như Lai; tinh cần tu tập, xưng dương, tán tháncúng dường xá-lợi của Như Lai và các vị Thanh-văn. Này A Nan! Vua Đại Thí kia một lòng tôn trọng cúng dường chư vị tì-kheo Thanh-văn trong nước Xá-ma. Trong nước này có đến hơn ba ngàn vị A-la-hán, đều có thần thông, công đứcuy lực lớn, nói pháp không biết mệt mỏi cho những người tu hành phạm hạnh, làm cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi trong các hàng trời, người.

Này A Nan, thầy chớ nên lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, ở miền Bắc-Thiên-trúc có thành Hưng-cừ-mạt-đản-na. Dân trong thành có được xá-lợi của Như Lai, bèn tôn trọng cúng dường. Họ dùng tràng hoa, bột thơm, âm nhạc, phướn lọng, y phục, đồ nằm, cùng vàng bạc châu báu để trang nghiêm đạo tràng. Này A Nan! Lúc bấy giờ, trong thành có ngôi tinh xá, rất nhiều người do có lòng tinphát tâm xuất gia, thọ trì cấm giới, tu tập các pháp lành; vô số người tại gia cũng tu tập các pháp lành như vậy.

Này A Nan! Trong số họ có nhiều người giữ giới, nghe nhiều học rộng, có trí tuệ, có lòng tin thanh tịnh, sâu xa đối với giáo pháp của Như Lai; đối với xá-lợi của Như Lai và chư vị Thanh-văn thì chăm lo trang sức cúng dường. Nói chung, đối với Phật Pháp Tăng, họ luôn siêng năng cúng dườnghết lòng hộ trì. Do căn lành đó, sau khi họ thọ hưởng hết phước báo của trời người, có vị sẽ chứng được đạo quả Vô Thượng Bồ Đề, có vị đạt được đạo quả Duyên-giác, có vị đạt được đạo quả Thanh-văn, rồi nhập niết-bàn.

Này A Nan! Do công đức cúng dường như thế, mà những vị đó có được thần thônguy lực lớn như thế; họ cũng làm cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi trong các hàng trời, người. Này A Nan, thầy chớ nên lo buồn! Chánh pháp của Như Lai sẽ được lưu bố rộng rãi, đem lại lợi ích cho các hàng trời, người. Này A Nan! Xá-lợi và hình tượng của Như Lai sẽ được tôn trí cùng khắp cõi Diêm-phù-đề; đó là chưa nói đến những nơi mà loài người không thể thấy được, như những hình tượng được tôn trí trong cung điện của các loài trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, cưu-bàn-trà, vân vân. Này A Nan, thầy chớ nên lo buồn! Giáo phápgiới luật của Như Lai sẽ được lưu bố rộng rãi trong các hàng trời, người.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49767)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34645)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33462)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43944)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57097)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47581)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39428)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38489)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52962)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36614)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32252)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40499)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43505)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31476)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46722)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36218)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28717)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29257)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31904)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28847)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33387)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29161)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60999)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39789)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26697)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29691)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37405)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40107)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26858)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42690)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37292)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28306)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28907)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26410)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27177)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26202)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34693)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27827)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30491)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33304)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28575)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30085)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25495)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21858)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51328)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26741)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28637)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27724)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24367)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27471)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31963)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30198)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27720)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35478)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27470)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30027)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31796)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23039)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24194)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23042)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant