Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 6: Hộ Trì Chánh Pháp

03 Tháng Chín 201607:57(Xem: 5824)
Phẩm 6: Hộ Trì Chánh Pháp

KINH ĐẠI BI

Tam tạng pháp sư Na Liên Đề Da Xá, người nước Thiên-trúc, 
dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, 
vào thời Cao-Tề (Bắc-Tề, 550-577).
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn,
tại Canada, năm 2016.

Kinh Dai Bi

 Phẩm 6
HỘ TRÌ CHÁNH PHÁP

 


Lúc bấy giờ đức Phật lại bảo tôn giả A Nan:

“Thầy đừng đau buồn nữa! Chánh pháp của Như Lai sẽ được lưu bố rộng rãi để làm lợi ích cho các chúng trời, người. Này A Nan! Sau khi Như Lai diệt độ, ở núi Ưu-lâu-mạn-trà, thuộc thành Ma-du-la, có ngôi già-lam tên Na-trì-ca. Nơi đó sẽ có thầy tì-kheo tên Tì Đề Xa, có thần thônguy lực lớn, có đức vô úy, nghe nhiều học rộng, có trí tuệ chân chánh, chứng được đạo quả, giữ gìn Kinh, Luật, Luận; đối với những người tu hành phạm hạnh thì chỉ bày, dạy dỗ, khiến cho đại chúng đạt được lợi lạc, và hoan hỉ với các thành tựu của đại chúng; nói pháp không biết mệt mỏi. Thầy tì-kheo kia sẽ lưu bố rộng rãi chánh pháp của Như Lai để đem lại lợi ích cho các hàng trời, người.

Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, cũng ở ngôi già-lam Na-trì-ca trong núi Ưu-lâu-mạn-trà, sẽ có thầy tì-kheo tên là Đề Tri Ca, có thần thônguy lực lớn, đối với những người tu hành phạm hạnh thì nói pháp không mệt mỏi; sẽ khiến cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi, đem lại lợi ích cho các hàng trời, người.

Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, bên cạnh núi Ưu-lâu-mạn-trà còn có ngọn núi tên Ưu-thi-la, ở đó có bốn muôn vị tì-kheo vân tập. Quí vị ấy có thần thônguy lực lớn, có đức vô úy, nghe nhiều học rộng, đầy đủ khả năng, có trí tuệ chân chánh, chứng được đạo quả, giữ gìn Kinh, Luật, Luận; vị nào cũng vậy, đối với những người tu hành phạm hạnh thì chỉ bày, dạy dỗ, khiến cho đại chúng đạt được lợi lạc, và hoan hỉ với các thành tựu của đại chúng; nói pháp không biết mệt mỏi. Các thầy tì-kheo kia đều tu hành phạm hạnh, đầy đủ thần thông biến hóa, sẽ lưu bố rộng rãi chánh pháp của Như Lai để đem lại lợi ích cho các hàng trời, người.

Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, bên cạnh núi Ưu-lâu-mạn-trà sẽ có một thầy tì-kheo tên Ưu Ba Cúc Đa, cũng đầy đủ khả nănguy lực lớn như vậy; cũng tu hành phạm hạnh, lưu bố rộng rãi chánh pháp của Như Lai, làm lợi ích cho các hàng trời, người. Nơi ấy cũng sẽ có một ngàn vị A-la-hán, cùng với tám muôn tám ngàn vị tì-kheo tụ hội, cùng bố-tát với nhau một chỗ, cùng làm một pháp yết-ma. Họ đối với nhau bằng tâm chân thành, và cùng ghi nhận những thành tựu của nhau. Họ đều tu hành phạm hạnh, đầy đủ thần thông biến hóa, lưu bố rộng rãi chánh pháp của Như Lai, làm lợi ích cho các hàng trời, người.

Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Thầy tì-kheo Ưu Ba Cúc Đa ấy, cùng với các đệ tử, đều có khả năng nói pháp, khiến cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi trong khắp các hàng trời, người.

Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, ở thành Ba-li-phất có ngôi già-lam tên Bạt-đa-ni, nơi đó có thầy tì-kheo tên A Du Bà Cúc Đa, tu hành phạm hạnh, đầy đủ ba minh, sáu thần thông, tám bước giải thoát, thiền địnhtrí tuệ; có uy lực lớn, làm cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi, đem lại lợi ích cho các hàng trời, người.

Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, cũng ở thành Ba-li-phất, có ngôi già-lam tên Cưu-cưu-tra, nơi đó có thầy tì-kheo tên Uất Đa La, tu hành phạm hạnh, có thần thônguy lực lớn, cũng có đầy đủ khả năng làm cho chánh pháp của Như Lai lưu bố rộng rãi, đem lại lợi ích cho các hàng trời, người.

Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Chánh pháp của Như Lai sẽ được lưu bố rộng rãi để làm lợi ích cho các hàng trời, người. Này A Nan! Sau khi Như Lai diệt độ, ở nước Ương-già sẽ có các thầy tì-kheo thiết lập đại hội Vô-già, có vị thượng tọa tên Thiết Đà Sa Trà và hơn một vạn ba ngàn vị A-la-hán tụ hội. Các vị này tu hành phạm hạnh, đều có thần thônguy lực lớn, đầy đủ khả năng, nói pháp không biết mệt mỏi, khiến cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi, làm lợi ích cho các hàng trời, người.

Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, ở thành Kim-bát-tất-đà sẽ có hai thầy tì-kheo, vốn thuộc dòng Bà-la-môn đi xuất gia; một thầy tên Tì Đầu La, một thầy tên San Xà Da, đều tu hành phạm hạnh, có thần thônguy lực lớn, đầy đủ khả năng, nói pháp không biết mệt mỏi, khiến cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi, làm lợi ích cho các hàng trời, người.

Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, ở thành Bà-kê-đa sẽ có thầy tì-kheo tên Đại Tinh Tấn, tu hành phạm hạnh, có thần thônguy lực lớn, đầy đủ khả năng, nói pháp không biết mệt mỏi, khiến cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi trong các hàng trời, người.

Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, sẽ có thầy tì-kheo tên Mạt Điền Đề, đầy đủ ba minh, sáu thần thông, tám bước giải thoát, thiền địnhtrí tuệ, có uy lực lớn, đối với những người tu hành phạm hạnh thì nói pháp không biết mệt mỏi. Bấy giờ ở trong sông Kế-tân của miền Bắc-Thiên-trúc có vô số các loài có sức mạnh như rồng, dạ-xoa, Càn-thát-bà, vân vân, cư trú. Tì-kheo Mạt Điền Đề bèn đến con sông ấy, dùng thần thông biến hóa hàng phục các loài ấy, khiến cho tất cả đều sinh lòng kính tin chánh pháp. Sau đó, tì-kheo Mạt Điền Đề bèn khuyến hóa dân chúng sống trong vùng sông Kế-tân cùng nhau kiến lập một ngôi già-lam, có nhiều ngàn chư vị Thanh-văn qui tụ về cư trú, tu tập. Thầy tì-kheo Mạt Điền Đề này, trong mọi thời khắc, đều làm cho ngôi già-lam ấy thành một đạo tràng trang nghiêm thanh tịnh; khiến cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi trong các hàng trời, người. Công đức của thầy tì-kheo Mạt Điền Đề, Như Lai không thể dùng lời gì để tán dương cho cùng tận.

Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, ở nước Càn-đà-la thuộc miền Bắc-Thiên-trúc, sẽ có thầy tì-kheo tên là Ca Diếp, có thần thônguy lực lớn, có đức vô úy, nghe nhiều học rộng, giữ gìn Kinh, Luật, Luận; có trí tuệ chân chánh, chứng được đạo quả; có đầy đủ khả năng, làm cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi. Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, tại thành Đắc-xoa-thi-la ở miền Bắc-Thiên-trúc, sẽ có một vị trưởng giả tên Xà Tri Ca, tướng tốt và đoan chánh không ai bằng, giàu có tột bực, rất nhiều của cải châu báu, lại có đầy đủ phước đứctrí tuệ, danh tiếng vang động bốn phương. Ông trưởng giả ấy có lòng tin sâu xa đối với Như Lai và chư vị Thanh-văn, cung kính cúng dườngtôn trọng, xưng tán; siêng năng tích tập thiện căn giác ngộ, có đầy đủ khả năng làm cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi trong các hàng trời, người. Trong đời vị lai, khi mãn một ngàn kiếp, ông sẽ thành bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, danh hiệu của Phật là Phổ Quang, thế giới của Phật tên là Cụ-đại-trang-nghiêm, kiếp đó tên là Tạo-hiền. Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, ở miền Bắc-Thiên-trúc có kinh thành tên Phú-ca-la-bạt-đế, nhân dân giàu có, an ổn. Nơi đó có nhiều vị Bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ thọ trì kinh điển, có lòng tin sâu xa đối với Như Lai và chư vị Thanh-văn, cung kính cúng dườngtôn trọng, xưng tán. Chư vị Thanh-văn ở nơi đó có vô số đệ tử, đều có thần thônguy lực lớn. Nơi đó cũng có nhiều vị trưởng giả, cư sĩ, nghe nhiều học rộng, có đức vô úy, có trí tuệ chân chánh, chứng được đạo quả.

Này A Nan! Ở tại kinh thành Phú-ca-la-bạt-đế kia, những người cư sĩ tại gia, sau khi mạng chung thì sinh lên cõi trời Đâu-suất, còn những người xuất gia thì lại đọa vào địa ngục. Vì sao vậy? Vì những ngưởi xuất gia ấy không giữ giới, không giữ luật nghi.

Này A Nan! Những người Ba-la-môn, trưởng giả, cư sĩ ở kinh thành Phú-ca-la-bạt-đế kia sẽ nghĩ như vầy: Chánh pháp của đức Phật Thích Ca Mâu Ni chắc chắn sẽ ẩn mất, vì sao? Vì chư vị tì-kheo tham cầu lợi dưỡng, hủy phạm cấm giới, tâm ý tán loạn, không thích ở chỗ nhàn tịnh, bỏ mất niềm vui thiền định; thường qua lại trong bốn chúng để cùng nhau làm những việc phá giới trái đạo; trong việc giao thiệp với các vị Bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩthân hữu thì không cung kính tôn trọng nhau; biếu tặng cơm nước hoa trái cho nhau không theo đúng luật nghi; dâm loạn với vợ người mà không biết hổ thẹn. Các vị Bà-la-môn, trưởng giảcư sĩ kia, khi nghe thấy chư vị tì-kheo làm những việc sai trái với chánh pháp như vậy thì ưu phiền và sợ sệt vô cùng, than thở với nhau rằng: Chánh pháp của Phật sắp ẩn mất rồi chăng! Ngay vào lúc đó, cũng ở trong kinh thành Phú-ca-la-bạt-đế, xuất hiện một vị ưu-bà-tắc tên là Pháp Tăng, có thần thông, phước đứcuy lực lớn, có đức vô úy, nghe nhiều học rộng, gìn giữ Kinh, Luận, khéo dùng phương tiện thiện xảo, có trí tuệ chân chánh, chứng được đạo quả. Bấy giờ, vị ưu-bà-tắc ấy, vì muốn cho các vị Bà-la-môn, trưởng giảcư sĩ kia sinh tâm kính tín, bèn bay lên hư không, chỉ bày, dạy dỗ, nói rằng: [Thưa quí vị! Xin hãy cẩn thận, đừng sợ sệt, đừng nghi ngờ, đừng lo lắng! Chánh pháp của đức Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn còn đang trụ thế. Xin quí vị hãy phát tâm tinh tấn làm các nghiệp lành, những người chưa ngộ thì giúp cho họ được ngộ, những người chưa đạt thì giúp cho họ được đạt, những người chưa chứng thì giúp cho họ được chứng. Thánh pháp nay vẫn còn đây, xin quí vị hãy mau tìm cầu!] Các vị Bà-la-môn, trưởng giảcư sĩ kia nghe được những lời ấy thì vui mừng vô cùng, bèn phát tâm bố thí, tạo các công đức; đối với xá-lợi của Như Lai thì gìn giữ trang nghiêm; đối với chư vị Thanh-văn thì siêng năng cúng dường, nghe phápthọ trì đọc tụng, gìn giữ cấm giới, siêng tu thiền định. Các vị Bà-la-môn, trưởng giảcư sĩ ấy, vì được vị ưu-ba-tắc Pháp Tăng kia chỉ bày, dạy dỗ, khiến cho được lợi lạc, họ đều qui hướng về con đường thánh thiệnđạo quả niết-bàn.

Này A Nan! Vị ưu-bà-tắc Pháp Tăng kia cũng có đầy đủ khả năng làm cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi, đem lại lợi ích cho các hàng trời, người. Như thế đó, này A Nan! Sau khi Như Lai diệt độ, cũng sẽ có nhiều người thế tục, có lòng kính tin sâu xa đối với chánh pháp của Như Lai. Những người này, trong quá khứ, đã từng cúng dường, gieo trồng căn lành nơi vô lượng chư Phật; bây giờ, đối với xá-lợi của Như Lai thì giữ gìn trang nghiêm, đối với chư vị Thanh-văn thì cung kính cúng dường, tôn trọng, xưng tán. Họ cũng làm cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi, đem lại lợi ích cho các hàng trời, người.

Này A Nan! Sau khi Như Lai diệt độ, trong đời vị lai, ở miền Bắc-Thiên-trúc sẽ có vị tì-kheo tên Kì Bà Ca xuất hiện ở đời. Vị tì-kheo này, trong đời quá khứ đã từng cung kính cúng dường, gieo trồng căn lành nơi vô lượng chư Phật; bây giờ phát khởi lòng tin sâu xa nơi giáo pháp đại thừa. Vì thương xót, muốn đem lại lợi íchan ổn cho chúng sinh, nên tì-kheo Kì Bà Ca phát tâm tu họcgiữ gìn pháp tạng Bồ-tát, xưng dương và phát triển giáo pháp đại thừa. Vị tì-kheo ấy thường xem xét các ngôi tháp miếu thờ hình tượng và xá-lợi của Như Lai, thấy nơi nào hư hoại thì sửa sang, dùng vàng để trang trí, dựng tràng phan, bảo cái, treo lưới có gắn phong linh, phát ra âm thanh vi diệu; lại tạo vô số hình tượng của Như Lai, xây cất thêm nhiều tháp miếu, làm cho các chúng trời, người phát khởi lòng tin và kính ngưỡng. Vì muốn được đầy đủ căn lành giác ngộ, vì thương xót chúng sinh, vì nhiếp thọhộ trì chánh pháp của Như Lai, vì muốn giúp cho những người chưa có lòng kính tin sẽ phát khởi lòng kính tin và tinh tấn tu hành, và cũng vì muốn giúp cho nhiều người có cơ hội gieo trồng căn lành, tì-kheo Kì Bà Ca sẽ thiết lập đại hội Vô-già.

Này A Nan! Vào thời bấy giờ có nhiều tì-kheo không giữ gìn cấm giới, làm nhiều việc phi pháp, không thích ở nơi nhàn tịnh, bỏ mất niềm vui thiền định, phá giới, trái đạo, hay tranh cãi; ham cất chứa tài vật, mỗi người chiếm riêng một phòng, thường qua lại với người thế tục, xa rời Phật pháp, không có lòng kính trọng đối với những vị tu hành phạm hạnh; những tì-kheo ấy chỉ có hình tướng giống như sa-môn mà thôi! Trong khi đó, cũng có một số ít tì-kheo chuyên cần tinh tấn, tránh xa những nơi ồn ào, luôn có chánh niệm, nhất tâm định tuệ, thường an trú nơi pháp lành, muốn ít, biết đủ, vui với hạnh tu xin ăn, an trú trong dòng giống Thánh nhân, có đức vô úy, nghe nhiều học rộng, giữ gìn Kinh, Luật, Luận. Lúc bấy giờ, tì-kheo Kì Bà Ca giúp các tì-kheo phi pháp kia được mặc áo pháp, tâm được chuyển hóa trở nên nhu thuận, các căn không khiếm khuyết, đầy đủ lòng tin sâu xa, được kính trọng tột bậc. Những người mặc áo pháp đều khởi tâm giữ giới, làm phước điền, thực hành hạnh bố thí, tu tập các căn lành. Thầy tì-kheo Kì Bà Ca kia, sau khi tu tập vô lượng căn lành giác ngộ thì mạng chung, sinh sang thế giới của đức Phật Vô Lượng Thọ ở phương Tây, cách đây hơn trăm ngàn ức cõi Phật. Ở đó, thầy tì-kheo Kì Bà Ca lại tiếp tục tu hành phạm hạnh, gieo trồng căn lành trải qua tám mươi ức đức Phật. Do căn lành ấy, trải qua chín mươi chín ức kiếp trong đời vị lai, thầy tì-kheo Kì Bà Ca sẽ thành bậc Chánh Giác, Phật hiệuVô Cấu Quang, ở thế giới tên là Nhất-thiết-công-đức-trang-nghiêm.

Này A Nan! Thầy tì-kheo Kì Bà Ca kia cũng làm cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi trong các hàng trời, người. Này A Nan, thầy chớ nên lo buồn! Giáo pháp của Như Lai sẽ được lưu bố rộng rãi, làm cho các hàng trời, người phát khởi lòng tin và kính ngưỡng. Này A Nan! Sau khi Như Lai diệt độ, trong đời vị lai sẽ có một nước ở vùng biên địa, tên là Xá-ma. Vua của nước đó tên là Đại Thí, phát khởi lòng tin thanh tịnh đối với giáo pháp của Như Lai; tinh cần tu tập, xưng dương, tán tháncúng dường xá-lợi của Như Lai và các vị Thanh-văn. Này A Nan! Vua Đại Thí kia một lòng tôn trọng cúng dường chư vị tì-kheo Thanh-văn trong nước Xá-ma. Trong nước này có đến hơn ba ngàn vị A-la-hán, đều có thần thông, công đứcuy lực lớn, nói pháp không biết mệt mỏi cho những người tu hành phạm hạnh, làm cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi trong các hàng trời, người.

Này A Nan, thầy chớ nên lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, ở miền Bắc-Thiên-trúc có thành Hưng-cừ-mạt-đản-na. Dân trong thành có được xá-lợi của Như Lai, bèn tôn trọng cúng dường. Họ dùng tràng hoa, bột thơm, âm nhạc, phướn lọng, y phục, đồ nằm, cùng vàng bạc châu báu để trang nghiêm đạo tràng. Này A Nan! Lúc bấy giờ, trong thành có ngôi tinh xá, rất nhiều người do có lòng tinphát tâm xuất gia, thọ trì cấm giới, tu tập các pháp lành; vô số người tại gia cũng tu tập các pháp lành như vậy.

Này A Nan! Trong số họ có nhiều người giữ giới, nghe nhiều học rộng, có trí tuệ, có lòng tin thanh tịnh, sâu xa đối với giáo pháp của Như Lai; đối với xá-lợi của Như Lai và chư vị Thanh-văn thì chăm lo trang sức cúng dường. Nói chung, đối với Phật Pháp Tăng, họ luôn siêng năng cúng dườnghết lòng hộ trì. Do căn lành đó, sau khi họ thọ hưởng hết phước báo của trời người, có vị sẽ chứng được đạo quả Vô Thượng Bồ Đề, có vị đạt được đạo quả Duyên-giác, có vị đạt được đạo quả Thanh-văn, rồi nhập niết-bàn.

Này A Nan! Do công đức cúng dường như thế, mà những vị đó có được thần thônguy lực lớn như thế; họ cũng làm cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi trong các hàng trời, người. Này A Nan, thầy chớ nên lo buồn! Chánh pháp của Như Lai sẽ được lưu bố rộng rãi, đem lại lợi ích cho các hàng trời, người. Này A Nan! Xá-lợi và hình tượng của Như Lai sẽ được tôn trí cùng khắp cõi Diêm-phù-đề; đó là chưa nói đến những nơi mà loài người không thể thấy được, như những hình tượng được tôn trí trong cung điện của các loài trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, cưu-bàn-trà, vân vân. Này A Nan, thầy chớ nên lo buồn! Giáo phápgiới luật của Như Lai sẽ được lưu bố rộng rãi trong các hàng trời, người.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19728)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23982)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41234)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19712)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24017)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21750)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23327)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27516)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26582)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29334)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33222)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20212)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25796)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20939)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31346)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38600)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21455)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44289)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29846)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42239)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22149)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45798)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32136)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23981)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24407)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29293)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33942)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27698)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32167)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21085)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28866)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21608)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28108)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22089)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21455)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19530)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19489)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19847)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19276)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29215)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20637)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28313)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23657)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33210)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31862)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21408)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39651)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21579)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19390)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26417)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24842)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21761)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22408)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29156)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22575)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20480)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23542)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21250)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35358)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24561)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant