Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 10: Phước Đức Cúng Dường

03 Tháng Chín 201607:57(Xem: 5359)
Phẩm 10: Phước Đức Cúng Dường
KINH ĐẠI BI
Tam tạng pháp sư Na Liên Đề Da Xá, người nước Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Cao-Tề (Bắc-Tề, 550-577).
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2016.



Phẩm 10
PHƯỚC ĐỨC CÚNG DƯỜNG



Lúc bấy giờ đức Phật lại bảo tôn giả A Nan:
“Thầy nên biết rằng, bất cứ người nào, dù chỉ gieo trồng chút ít căn lành, nhưng đừng bao giờ cho đó là việc làm vô ích! Một người, dù chỉ một lần phát sinh niềm tin, Như Lai nói rằng, người ấy sẽ tiến đến tận cùng đạo quả niết-bàn. Trong ý nghĩa đó, Như Lai sẽ nói thí dụ để các thiện nam tín nữ có được lòng tin thanh tịnh.
“Này A Nan! Ví như người câu cá, vì muốn có cá nên đã mắc mồi vào lưỡi câu, rồi thả xuống ao cho cá ăn. Khi con cá đã cắn mồi, ngay lúc ấy, tuy nó đang còn ở trong ao, nhưng chẳng bao lâu sau đó nó sẽ bị đem ra khỏi ao; vì sao vậy? Vì con cá ấy đã bị lưỡi câu móc chặt rồi! Con cá ấy, tuy ngay lúc đó nó ở dưới nước, nhưng nên biết rằng, nó chắc chắn phải ở trên bờ ao; vì sao vậy? Vì sợi dây câu kia đã được cột vào một gốc cây trên bờ ao, người câu cá vừa nhìn thấy thì biết ngay là con cá đã cắn mồi, bèn kéo sợi dây câu lên bờ, lấy con cá ra để dùng theo ý muốn.
“Như thế đó, này A Nan! Tất cả chúng sinh phát khởi lòng kính tín nơi chư Phật, trồng các căn lành, tu hạnh cúng dường, cho đến trong tâm phát được một niềm tin; tuy còn bị các nghiệp ác đã tạo ngăn che, phải đọa vào địa-ngục, ngạ-quỉ, súc-sinh, và các chốn đau khổ khác, nhưng nếu gặp lúc có đức Phật Thế Tôn ra đời, Ngài dùng Phật nhãn quán sát, thấy các chúng sinh đang tu tập hoặc Bồ-tát thừa, hoặc Duyên-giác thừa, hoặc Thanh-văn thừa; các chúng sinh này thì gieo trồng căn lành, các chúng sinh kia thì dứt mất căn lành, có các chúng sinh căn lành thấp kém, có các chúng sinh căn lành thắng tấn; lại có các chúng sinh gieo chủng tử nơi đất thánh hiền, cho đến một lần phát tâm cúng dường nơi phước điền Phật. Do căn lành này, đức Phật Thế Tôn dùng Phật nhãn quán sát thấy người ấy đã phát tâm thù thắng, bèn cứu vớt thoát khỏi chốn địa-ngục, đặt lên bờ niết-bàn, rồi khiến cho người ấy nhớ lại mình vốn đã trồng căn lành nơi đức Phật đó, ở thế giới đó, vào lúc đó. Người ấy nhớ lại rồi, bèn bạch rằng: [Vâng, đúng như vậy, bạch đức Thế Tôn!] Đức Phật kia bảo người ấy: [Này thiện nam tử! Ông nhờ căn lành này mà được phước báo lớn, được lợi ích lớn. Ông đã trồng căn lành bằng cách tu hạnh cúng dường chư Phật. Này thiện nam tử! Như thế là ông đã đem căn lành gửi gấm nơi chư Phật, và sự gửi gấm ấy không bao giờ bị mất; dù có trải qua thời gian lâu dài đến trăm ngàn ức na-do-tha kiếp, thì với căn lành kia, chắc chắn ông sẽ tiến đến tận cùng đạo quả niết-bàn.]
“Này A Nan! Trở lại thí dụ trên, con cá là dụ cho kẻ phàm phu, ao nước là dụ cho biển sinh tử, lưỡi câu là dụ cho chút ít căn lành đã gieo trồng nơi chư Phật, sợi dây câu là dụ cho bốn pháp thu phục, người câu cá là dụ cho chư Phật, tùy ý sử dụng con cá là dụ cho chư Phật đặt chúng sinh trên bờ giải thoát niết-bàn. Này A Nan! Sự việc diễn tiến tuần tự như thế đó. Thầy nên biết rõ, nếu cúng dường vào phước điền Phật, thì căn lành ấy, dù trải qua thời gian lâu dài, trọn không bao giờ hao mất, chắc chắn sẽ tiến đến tận cùng đạo quả niết-bàn!
“Này A Nan! Như Lai lại nói một thí dụ khác, để thấy rằng, nếu cúng dường nơi phước điền Phật, sẽ đạt được niết-bàn đệ nhất, niết-bàn rốt ráo. Này A Nan! Nếu có người yêu thích thế gian, họ sẽ làm các việc thế gian để mong cầu quả báo thế gian; đó là lẽ đương nhiên. Nhưng, nếu họ tu hạnh cúng dường chư Phật mà lại đem căn lành ấy hồi hướng về các cõi lành trời và người; hoặc có người gieo trồng căn lành nơi chư Phật, rồi nói rằng: ‘Với căn lành này, tôi nguyện đời đời không vào niết-bàn.’ Này A Nan! Cả hai trường hợp trên đều không thể có, vì sao vậy? Này A Nan! Chư Phật là phước điền vô thượng. Thửa ruộng đó không có thứ gì dơ bẩn, không có cỏ dại, không có gai gốc, không có ham muốn, không có lỗi lầm, hoàn toàn thanh tịnh. Trong thửa ruộng như thế thì chỉ cần gieo một hạt giống phước đức, trồng một chút ít căn lành là có thể sinh trưởng; nhưng, nếu đem gieo trồng nơi các loại ruộng khác thì không thể sinh trưởng được.
“Có thể gieo trồng căn lành nơi ba loại bồ-đề: Đó là bồ-đề Vô-thượng, bồ-đề Duyên-giác và bồ-đề Thanh-văn. Căn lành được gieo trồng nơi ba loại bồ-đề đó thì không bao giờ bị tiêu mất. Do tâm cúng dường mà sinh lòng kính tin, làm nhân duyên tăng thượng để đến cõi lành, nhuần pháp thanh tịnh, và chắc chắn sẽ nhập vào cảnh giới niết-bàn.
“Này A Nan! Ví như ông trưởng giả làm ruộng, ông cày đất cho tơi và làm cho thật sạch sẽ, không còn các thứ gai gốc, cỏ dại, gạch đá, lại bón phân tốt cho đất được nhuận; còn hạt giống thì ông đựng trong đồ đựng quí giá, không để cho chúng bị hư mục. Đến khi thời tiết thích hợp, ông đem hạt giống gieo xuống ruộng, tưới nước, săn sóc cẩn thận. Này A Nan! Nếu ông trưởng giả kia đã để hết tâm lực chuẩn bị ruộng đất kĩ càng như thế, rồi thỉnh thoảng ra thăm ruộng, ông đứng trên bờ ruộng nói với hạt giống ở dưới ruộng rằng: [Này các hạt giống! Chúng mày không được làm hạt giống, không được mọc mầm, không được lớn lên! Ta không cầu lợi lộc, cũng không cầu quả báo!] Này A Nan! Ý thầy thế nào? Ông trưởng giả làm ruộng kia có thể bảo hạt giống đừng làm hạt giống, đừng mọc mầm, được không?”
Tôn giả A Nan bạch Phật:
“Bạch đức Thế Tôn! Ông trưởng giả kia không thể nói như vậy được, vì chắc chắn hạt giống sẽ mọc mầm, không thể nào không kết hạt.”
Đức Phật dạy:
“Đúng vậy, đúng vậy, này A Nan! Nếu có người rất ham thích quả báo sinh tử trong ba cõi, nhưng lại gieo trồng căn lành nơi phước điền Phật mà nói rằng: [Với căn lành này, xin nguyện cho tôi không đạt được đạo quả niết-bàn.] Này A Nan! Người ấy không đạt được đạo quả niết-bàn, không thể nào có lẽ đó. Này A Nan! Người ấy tuy không mong cầu niết-bàn, nhưng đã trồng căn lành nơi chư Phật, thì Như Lai nói, người ấy chắc chắn sẽ tiến đến tận cùng đạo quả niết-bàn; dù có người chỉ một lần sinh khởi tâm kính tín đối với chư Phật, thì với căn lành đó, người ấy cũng chắc chắn sẽ đạt được niết-bàn rốt ráo.
“Này A Nan! Trong đời vị lai sẽ có một vị vua của một nước ở biên địa. Ông tuy không hiểu gì về công đứcchánh pháp của chư Phật, nhưng khi trông thấy tinh xáhình tượng của Phật thì liền sinh tâm kính tín. Này A Nan! Như Lai đã từng thọ sinh trong năm nẻo đường để tu tập hạnh Bồ-tát, và có lúc đã dùng bốn pháp thu phụcbố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, để nhiếp phục vị vua biên địa kia. Bởi vậy, khi được thấy tinh xáhình tượng của Như Lai thì ông liền sinh tâm kính tín; và do căn lành này, chắc chắn ông sẽ đạt được niết-bàn rốt ráo. Này A Nan! Vị vua biên địa kia có quần thần, có các vương tử và đại thần phụ tá, có thân thích cốt nhục và các bạn bè; sau khi Như Lai diệt độ, tất cả những vị đó trông thấy tinh xáhình tượng của Như Lai, tuy không hiểu gì về công đứcchánh pháp của chư Phật, nhưng nhờ đã có chút ít căn lành đời trước, liền sinh tâm kính tín. Trong thời kì Như Lai tu tập hạnh Bồ-tát, Như Lai cũng đã từng dùng bốn pháp thu phục mà nhiếp phục những vị đó; và do được căn lành này gia trì, chắc chắn họ sẽ đạt được niết-bàn rốt ráo.
“Này A Nan! Như Lai suốt thời gian lâu dài thương xót chúng sinh, luôn dùng bốn pháp thu phục để nhiếp hóa, dùng giáo pháp của chư Phật để nuôi dưỡng.
“Này A Nan! Thầy hãy xem đó! Khi Như Lai đi trên đường, chỗ nào đất nhô cao thì khiến cho thấp xuống, chỗ nào trũng thấp thì khiến cho cao lên, thấp cao đều bằng phẳng; và khi Như Lai đi qua khỏi những chỗ ấy rồi, thì các thế đất thấp cao liền trở lại như cũ. Tất cả cây cối đều nghiêng mình hướng về Như Lai, các vị thần cây đều cúi đầu lễ bái; và khi Như Lai đi qua khỏi rồi thì cây cối liền đứng thẳng lại như cũ. Những gò đống hầm hố, những chỗ ô uế hôi hám, những lùm bụi gai gốc, gạch ngói ngổn ngang, tất cả đều được làm cho bằng phẳng, sạch sẽ, thanh tịnh, trang nghiêm, lại có hương thơm xông ngào ngạt, các loại hoa đủ màu rực rỡ trải khắp mặt đất; Như Lai bước trên đó mà đi qua.
“Này A Nan! Thầy hãy xem đó! Như Lai vốn tu tập các công đức lành, cho nên trên đường đi, không có chúng sinh nào mà không cúi đầu lễ bái; đến như các vật vô tình như đất đai, sườn núi, cây cối, dược thảo, ở nơi Như Lai đi qua, không có thứ gì là không nghiêng mình; vì sao vậy? Này A Nan! Trong thời kì Như Lai tu hành hạnh Bồ-tát, đối với chư vị sư trưởng, Như Lai lúc nào cũng nghiêng mình lễ bái; đối với cha mẹ thì Như Lai tôn trọng hàng đầu, và lúc nào cũng nghiêng mình lễ bái; đối với các hàng kì lão tôn túc, trung niên, thiếu niên, thân thích, bạn bè, Như Lai đều nghiêng mình cung kính; đối với chư Phật, Bồ-tát, Duyên-giác, Thanh-văn, các bậc thiện tri thức, cả đến các hàng ngoại đạo, các tiên nhân chứng năm thần thông, các hàng sa-môn, bà-la-môn, tất cả những bậc như thế đều xứng đáng thọ nhận sự cúng dường, không có ai mà Như Lai không nghiêng mình khiêm cung kính lễ. Do phước báo của các nghiệp lành đó mà Như Lai chứng quả Vô-thượng Bồ-đề, Như Lai đã thành Phật; và ở những nơi Như Lai đi qua, tất cả các sự vật, hữu tình và vô tình, đều cúi đầu, nghiêng mình lễ bái. Này A Nan! Như Lai đã từng chí thành đem các tài sản quí báu, thanh tịnh, tự tay cúng dường các bậc sư trưởng, và bố thí cho các chúng sinh khác; do phước báo đó mà khi Như Lai đi đường thì mặt đất bằng phẳng, sạch sẽ, không có bùn lầy, không có gạch đá. Này A Nan! Trong đời quá khứ xa xưa, nơi những con đường  mà chư Phật, Bồ-tát, thiện tri thức, Duyên-giác, Thanh-văn, và chư tiên ngoại đạo thường đi qua, Như Lai từng quét dọn sạch sẽ, không có bùn dơ; Như Lai cũng quét dọn và trang hoàng phòng xá cho các ngài. Dù đi dù đứng nơi các tinh xá của chư Phật, Như Lai thường đem tâm từ, tâm bình đẳng, tâm không cao thấp, tâm không khúc khuỷu, tâm thanh tịnh để quét dọn, làm cho tinh xá lúc nào cũng sạch sẽ. Trong tất cả mọi thời gian, Như Lai thường cầu đạo quả Vô-thượng Bồ-đề, là vì tất cả chúng sinh, vì thương xót tất cả chúng sinh, vì làm cho chúng sinh an lạc, vì đem lại lợi ích an lạc cho các hàng trời, người.
“Này A Nan! Công đức về thân nghiệp của Như Lai rất thù thắng, khó biết, không có ngằn mé. Này A Nan! Như Lai muốn nói đầy đủ ý nghĩa này để các thiện nam tín nữ phát khởi lòng kính tin sâu xa đối với Như Lai. Này A Nan! Núi chúa Tu-di cao khỏi mặt biển tám vạn bốn ngàn do-tuần, phần chìm trong biển cũng sâu tám vạn bốn ngàn do-tuần. Này A Nan! Khi Như Lai diệt độ, ngọn núi chúa cao lớn kiên cố ấy không thể nào không nghiêng mình, huống chi những núi đen, cây cối, cỏ hoa khác mà không nghiêng mình, thì không có lẽ đó. Này A Nan! Ngoài ngọn núi chúa Tu-di kiên cố ấy, còn có núi Thiết-vi cao mười sáu vạn tám ngàn do-tuần, cũng cứng chắc như kim cương, khi Như Lai nhập niết-bàn, những núi ấy đều nghiêng mình kính lễ; nếu chúng muốn tránh xa, không nghiêng mình kính lễ, thì không có lẽ đó. Vì sao vậy? Này A Nan! Trong thời kì Như Lai tu hành hạnh Bồ-tát, tất cả chúng sinh làm sự nghiệp gì, Như Lai đều không xa lánh. Các chúng sinh căm giận, trái nghịch nhau, Như Lai làm cho họ hòa hợp; trước kia họ bất hòa, nay Như Lai khiến cho hòa hợp. Như Lai làm cho họ an trú vững chắc trong tâm từ, tâm lân mẫn, thật đầy đủ, không bị hủy hoại. Này A Nan! Do căn lành đó mà Như Lai có được thân không thể hủy hoại, và cũng khiến cho quyến thuộc được kiên cố, không thể hủy hoại. Này A Nan! Quyến thuộc kiên cố của Như Lai ở đây là giáo pháp không thể hủy hoại, đó là: bốn lĩnh vực quán niệm, bốn sự cần mẫn, bốn phép như ý, năm khả năng, năm sức mạnh, bảy yếu tố giác ngộ, và tám nguyên tắc hành động chân chánh. Này A Nan! Ba mươi bảy phẩm trợ đạo này là đại quyến thuộc của Như Lai, chư Phật và các hàng Duyên-giác, Thanh-văn đều an trú trong đó; tất cả các chúng trời, người trong thế gian đều không thể làm cho hủy hoại được. Vì sao vậy? Này A Nan! Do giáo pháp này mà khi Như Lai nhập niết-bàn, tất cả mọi loài trong thế gian, từ chư thiên, Phạm vương, ma vương, sa-môn, bà-la-môn, người, a-tu-la, cho đến núi Tu-di, núi Thiết-vi, đại địa, cây cỏ, vân vân, không có loài nào là không nghiêng mình hướng về Như Lai, thì còn ai mang tâm hủy hoại? Nếu có kẻ muốn hủy hoại, đó là điều không thể có được. Vì sao vậy? Này A Nan! Thân của Như Lai không thể hủy hoại, xá-lợi của Như Lai cũng không thể hủy hoại. Này A Nan! Như Lai thương xót tất cả chúng sinh, vì bản nguyện cho nên làm cho xá-lợi này phân nhỏ như hạt cải, khiến cho Phật pháp lưu bố càng thêm rộng rãi. Này A Nan! Trong thời kì tu hành hạnh Bồ-tát, Như Lai đã từng phát nguyện như vầy: [Khi tôi đã thành bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, sau khi tôi nhập niết-bàn, nguyện cho xá-lợi của tôi được lưu bố rộng rãi.] Này A Nan! Vì bản nguyện đó, cho nên sau khi Như Lai diệt độ, xá-lợi của Như Lai sẽ được lưu bố rộng rãi. Các chúng sinh thấy Như Lai nhập niết-bàn thì chứng được thánh quả, cho nên, vì thương xót các chúng sinh kia mà Như Lai khiến cho xá-lợi này phân nhỏ như hạt cải. Này A Nan! Như Lai là bậc Chánh Biến Tri, khi thời khắc nhập niết-bàn đã đến, vì thương xót chúng sinh trong thế gian, liền nhập tam-muội, phân xá-lợi này nhỏ như hạt cải, mà thân Như Lai không bị đau đớn; tất cả xương cốt đều phân tán nhỏ như hạt cải, mà Như Lai không bị đau đớn. Như Lai thương xótnhiếp thọ các chúng sinh kia, và cả các chúng sinh trong đời vị lai, khiến cho họ được an ổn ở các đường lành. Họ tôn trọng nghinh tiếp, khiêm hạ cúng dường xá-lợi; dùng các thứ hương hoa, y phục, phướn lọng, âm nhạc để trang nghiêm cúng dường. Như Lai nói rằng, tất cả các chúng sinh đó chắc chắn sẽ tiến đến tận cùng đạo quả niết-bàn.
“Này A Nan! Sau khi Như Lai diệt độ một trăm năm, ở thành Ba-li-phất, sẽ có vị quốc vương tên A Du Ca, thuộc dòng họ Khổng-tước, rất kính tin Như Lai, chuyên dùng giáo pháp để trị đời, cho lưu bố rộng rãi xá-lợi của Như Lai. Nhà vua sẽ kiến lập tám vạn bốn ngàn ngôi tháp để thờ xá-lợi của Như Lai. Này A Nan, thầy chớ nên lo buồn! Xá-lợi của Như Lai sẽ được lưu bố rộng rãi trong các hàng trời, người. Này A Nan! Hoặc có người hiện tại cúng dường Như Lai; hoặc có người, sau khi Như Lai diệt độ, cúng dường xá-lợi nhỏ như hạt cải của Như Lai; hoặc có người nằm mộng thấy tinh xá của Phật mà sinh tâm kính tín, Như Lai nói rằng, những người này, do căn lành ấy, sẽ chứng nhập cảnh giới niết-bàn rốt ráo.
“Này A Nan! Chư Phật ra đời trong đời vị lai đều xưng danh hiệu và khen ngợi công đức của Như Lai, cũng giống như Như Lai lâu nay từng khen ngợi công đức của chư Phật trong đời quá khứ.
“Này A Nan! Khi Như Lai nói pháp, các chúng sinh đều xa lìa trần cấu, chứng được pháp nhãn. Này A Nan! Các chúng sinh kia, trong thời kì Như Lai tu hành hạnh Bồ-tát, đều đã được thành thục trước rồi.
“Này A Nan! Nếu cúng dường nơi phước điền Tăng và chư Tăng trong bốn phương, công đức dù có thể cùng tận; nhưng cúng dường nơi phước điền Bích-chi Phật thì công đức không thể cùng tận, và cúng dường nơi phước điền Phật, công đức lại càng không thể cùng tận.
“Lại nữa, này A Nan! Như trước đây Như Lai đã từng nói, công đức cúng dường nơi bất cứ loại phước điền nào, đều chắc chắn sẽ đưa đến đạo quả niết-bàn rốt ráo. Này A Nan! Hoặc hiện thời cúng dường cho Như Lai, hoặc sau khi Như Lai diệt độ sẽ cúng dường xá-lợi của Như Lai, này A Nan, nếu có người nhớ nghĩ tới Như Lai, dù chỉ đem một bông hoa rải trên hư không, Như Lai dùng Phật trí thấy rõ, căn lành của người kia thật không thể lường, không thể nói hết được. Này A Nan! Người kia trồng căn lành, với tâm nhớ nghĩ tới Như Lai, dù chỉ dùng một bông hoa rải trên hư không, hết kiếp này lại bôn ba lưu chuyển, từ đầu đến cuối không thể biết được số kiếp; trong thời gian lưu chuyển đó, dù đã chỉ rải một bông hoa cúng dường Như Lai, phước báo của người đó không thể nói cho cùng được. Người đó có thể làm Phạm Thiên Vương, Thích Thiên Vương, Chuyển Luân Thánh Vương, nhưng vì căn lành kia không thể cùng tận, cho nên người đó chắc chắn đạt đến cảnh giới niết-bàn rốt ráo. Vì sao vậy? Này A Nan! Người ấy cúng dường chư Phật đại thần thông một bông hoa như thế, thì có được lợi ích rộng lớn, phước báo vô lượng, công đức tích tụ lớn lao không có ngằn mé, không thể suy lường, chắc chắn sẽ đạt đến cảnh giới niết-bàn. Này A Nan! Người tạo được công đức ở nơi chư Phật thì được phước báo không ngằn mé, không thể suy lường; dù chỉ một lần phát tâm nhớ nghĩ tới Phật và sinh lòng kính tin, Như Lai nói rằng, người đó phạm hạnh rốt ráo, an ổn rốt ráo, tận cùng rốt ráo. Vì vậy cho nên, này A Nan, nếu có vị thiện nam hay tín nữ nào muốn cầu làm các vị chúa tể tự tại của thế gian như Phạm Thiên Vương, Chuyển Luân Thánh Vương, hoặc trời Tứ-vương, trời Đao-lợi, trời Dạ-ma, trời Đâu-suất, trời Hóa-lạc, trời Tha-hóa-tự-tại cùng các thiên chúng khác, và các bộ chúng rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người, không phải người, thì nên như thế mà tôn trọng cung kính cúng dường chư Phật Thế Tôn; nếu muốn mong cầu các địa vị Thanh-văn, Duyên-giác, hay Vô-thượng Bồ-đề, vị thiện nam hay tín nữa ấy cũng nên như thế mà tôn trọng cung kính cúng dường.
“Này A Nan! Trong đời quá khứ, khi Như Lai cầu đạo Vô-thượng Bồ-đề, đối với vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha chư Phật, Như Lai đã từng tôn trọng cung kính cúng dường, nào là y phục, các thức ăn uống, giường chiếu, thuốc thang; nào là các loại tràng hoa, hương xoa, hương bột, hương chiên đàn trầm thủy, phướn lọng quí báu. Sau khi Phật diệt độ, Như Lai lại kiến lập tháp miếu, dùng các thứ hương, hoa, kĩ nhạc, tôn trọng cung kính cúng dường. Như thế là vì Như Lai thương xót chúng sinh trong thế gian, đem lại lợi ích an lạc cho các hàng trời người, những người chưa được độ thì khiến cho được độ, những người chưa giải thoát thì khiến cho được giải thoát, những người chưa an ổn thì khiến cho được an ổn, những người chưa đạt được niết-bàn thì khiến cho đạt được niết-bàn.
“Này A Nan! Như Lai đã từng dâng năm cành hoa ưu-ba-la cúng dường đức Phật Nhiên Đăng, và nhờ đó mà Như Lai chứng ngộ được vô-sinh pháp-nhẫn. Căn lành thì ít như thế, mà phước báo đâu phải là nhỏ! Như Lai do dâng năm cành hoa cúng dường đức Phật Nhiên Đăng và chút ít căn lành khác mà được phước báo lớn lao như thế nào, này A Nan, thầy muốn biết không?”
Tôn giả A Nan bạch Phật rằng:
“Bạch đức Thế Tôn! Chúng con muốn nghe. Bạch đức Thế Tôn! Bây giờ thật đúng lúc. Cúi xin đức Thế Tôn chỉ dạy, đức Thế Tôn đã trồng chút ít căn lành nơi đức Phật Nhiên Đăng mà được phước báo như thế nào?”
Lúc ấy, đức Phật duỗi cánh tay phải sắc vàng ra, dùng ngón tay út phóng ra mùi thơm của hoa trời ưu-ba-la, xông khắp ba ngàn đại thiên thế giới chư Phật, tỏa khắp trăm ức chỗ nơi có mặt trời mặt trăng đang vận hành. Ở giữa các hàng trời, người và a-tu-la, đức Phật hiện bày sự việc diệu kì chưa từng có này. Đức Phật đã trồng chút ít căn lành nơi chư Phật và có được phước báo như thế nào, Ngài đều hiện bày đầy đủ, không hư dối, không thiếu sót. Lúc bấy giờ, đức Phật nói kệ rằng:
“Chư Phật thật không thể nghĩ bàn!
Giáo pháp của Như Lai cũng vậy.
Nếu tin điều ‘không thể nghĩ bàn’
Sẽ được phước không thể nghĩ bàn.
Một  người trải qua vô lượng kiếp,
Bố thí cho tất cả chúng sinh
tư tưởng hay không tư tưởng;
Một người trải qua vô lượng kiếp,
Cúng dường tất cả Phật Bích-chi,
Các bậc vô lậu A-la-hán;
Một người cúng dường Phật tại thế,
Hoặc Phật sau khi nhập niết-bàn,
Mặc dù chỉ với một chắp tay,
Phước báo này hơn hai người trước!
Giới luật của Phật không khiếm khuyết,
Trong chánh định tâm được tự tại,
Phật nhãn không gì không thấy rõ,
Thấu suốt diệu pháp không nghi hoặc.
Ở nơi chư Phật tu tâm từ,
Ngày hoặc đêm dùng chút thời gian,
Cúng dường chư Phật phước vô lượng,
Trong ba cõi không gì so sánh.
Trải kiếp tăng-kì trong quá khứ,
Như Lai nơi đạo tràng chư Phật,
Từng làm ánh sáng cho trời, người,
Tu các nghiệp lành không kể số,
Nên trong thời gian dài lưu chuyển,
Hưởng thọ phước báo không cùng tận.
Do phước báo đó làm nhân duyên,
Như Lai chứng thành bậc Chánh Giác.
Như Laithương xót chúng sinh,
Đời đời thường tu hạnh cúng dường,
Vô lượng trăm ngàn ức chư Phật.
Phật không thọ kí cho Như Lai.
Đức Thế Tôn trên hết trời, người,
Biết Như Lai căn lành chưa đủ,
tu thiện, không được thọ kí.
Như Lai vẫn trì chí kiên nhẫn,
Gặp lúc Phật Nhiên Đăng ra đời,
Liền cúng năm cành ưu-ba-la,
Tóc trải bùn thỉnh Phật đi qua,
Được chứng nhập vô-sinh pháp-nhẫn.
Đức Đạo Sư đứng trên hư không,
Thọ kí cho Như Lai, nói rằng:
[Đời sau trải kiếp a-tăng-kì,
Ông sẽ thành Phật, hiệu Thích Ca.]
Từ đó đến nay trong lưu chuyển,
Như Lai tu vô lượng nghiệp lành,
Chịu khổ cực vì thương chúng sinh,
Và vì cầu Vô-thượng Bồ-đề.
Vì thấy thế gian chỉ có khổ,
Như Lai thương xót thường bố thí,
Phước đức đó thật vô hạn lượng,
Chư Phật có nói cũng không hết!
Khi Như Lai tu hạnh Bồ-tát,
Ngày đêm thường hướng về chư Phật,
Xưng niệm danh hiệu để cúng dường,
Vô lượng ức kiếp, không kể số,
Một, hai, ba, bốn, năm, đến mười,
Hai mươi, ba mươi…, cứ xưng danh.
Vì thương chúng sinhtu hành,
Thường cúng dường chư Phật tối thắng.
Như Lai cũng tu hành khổ hạnh,
Từng nhẫn chịu vô luợng khổ sở,
Đời đời không bỏ tâm bồ-đề,
Tất cả chư Phật không sánh được.
Khi Như Lai lưu chuyển sinh tử,
Đã từng bỏ vạn ức đầu mình,
Bỏ quốc độ, vương vị quí báu,
Chỉ vì cầu được nghe giáo pháp.
Như Lai tâm cầu pháp vô thượng,
Niềm vui thâm sâu khó diễn tả,
Bố thí, trì giớinhẫn nhục,
Tinh tấn, chứng ngộ quả Bồ-đề.
Thế lực chư Phật không nghĩ bàn,
Được kiến lập từ các công đức.
Bậc nói chánh pháp không nghĩ bàn,
Cũng hiển bày Bồ-đề thắng diệu.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29908)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27192)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21783)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22249)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23626)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20447)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20062)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21955)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24776)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19016)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24790)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 31006)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24010)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27784)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26549)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21363)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23244)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38167)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18813)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20002)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19060)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23191)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23903)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22834)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22942)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29605)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20654)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18731)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15856)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18873)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19703)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20174)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19967)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18141)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22981)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34201)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16442)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16942)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39291)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26116)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20124)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18874)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24091)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29164)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22917)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30982)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21029)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26875)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20693)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26277)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23352)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19837)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24699)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30054)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20242)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20427)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15163)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15846)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23924)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant