Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 14: Giáo Huấn

03 Tháng Chín 201607:57(Xem: 5316)
Phẩm 14: Giáo Huấn
KINH ĐẠI BI

Tam tạng pháp sư Na Liên Đề Da Xá, người nước Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn,
tại Trung-quốc, vào thời Cao-Tề (Bắc-Tề, 550-577).
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2016.
 

 

Phẩm 14

GIÁO HUẤN

 

 

Lúc bấy giờ tôn giả A Nan bạch Phật rằng:

“Bạch đức Thế Tôn! Nay chúng con tu hành Pháp Nhãn như thế nào? Nếu chúng con tu hành Chánh Pháp Nhãn của Phật, làm thế nào để có trường cửuthế gianlưu bố rộng rãi trong khắp các hàng trời, người? Bạch đức Thế Tôn! Chúng con kết tập Pháp Nhãn như thế nào? Diễn nói ra sao?”

Đức Phật dạy:

“Này A Nan! Sau khi Như Lai diệt độ, có chúng đại đức tì-kheo tụ họp để kết tập Kinh Luật, do đại đức Đại Ca Diếp làm thượng thủ. Này A Nan! Lúc bấy giờ chúng đại đức tì-kheo kia sẽ hỏi như thế này: [Đức Thế Tôn nói kinh Thí Dụ ở đâu? Nói kinh Nhân Duyên ở đâu? Nói đại tập pháp ở đâu? Nói ngũ pháp, tam pháp ở đâu? Chư thiên đến hỏi đạo ở đâu? Trời Đế Thích đến hỏi đạo ở đâu? Chư thiên giáng hạ nơi nào? Nói kinh Phạm Võng ở đâu?] Tuần tự như thế.

“Chúng đại đức tì-kheo kia lại hỏi thầy như sau: [Thưa tôn giả A Nan! Đức Thế Tôn nói Khế Kinh ở đâu? Nói Trùng Tụng ở đâu? Nói Kí Biệt ở đâu? Nói Cô Khởi ở đâu? Nói Tự Thuyết ở đâu? Nói Nhân Duyên ở đâu? Nói Bản Sự ở đâu? Nói Bản Sinh ở đâu? Nói Phương Quảng ở đâu? Nói Thí Dụ ở đâu? Nói Vị Tằng Hữu ở đâu? Nói Luận Nghị ở đâu? Thưa tôn giả A Nan! Đức Thế Tôn nói tạng Thanh Văn ở đâu? Đức Thế Tôn nói tạng Duyên Giác ở đâu?  Đức Thế Tôn nói tạng Bồ Tát ở đâu?]

“Này A Nan! Chúng đại đức tì-kheo kia hỏi như thế rồi, thầy nên trả lời như vầy:

[Đây là những điều chính tôi được nghe: Thuở đó đức Phật mới thành Chánh Giác, đang ngự tại cội cây Bồ-đề, nước Ma-kiệt-đà…..

[Đây là những điều chính tôi được nghe: Thuở đó đức Phật đang ngự tại thành Già-da…..

[Đây là những điều chính tôi được nghe: Thuở đó đức Phật đang ngự tại cội cây Ni-câu-đà, xứ Tu-khổ- hạnh, nước Ma-kiệt-đà…..

[Đây là những điều chính tôi được nghe: Thuở đó đức Phật đang ngự tại vườn Lộc-giã, gần thành Ba-la-nại…..

[Đây là những điều chính tôi được nghe: Thuở đó đức Phật đang ngự tại núi Kì-xà-quật…..

[Đây là những điều chính tôi được nghe: Thuở đó đức Phật đang ngự tại núi Tì-phú-la…..

[Đây là những điều chính tôi được nghe: Thuở đó đức Phật đang ngự tại núi Bính-đề-ha, nước Ma-kiệt-đà…..

[Đây là những điều chính tôi được nghe: Thuở đó đức Phật đang ngự tại tảng đá vuông đen trong núi Tiên-nhân, thành Vương-xá…..

[Đây là những điều chính tôi được nghe: Thuở đó đức Phật đang ngự tại tu viện Cấp-cô-độc trong vườn cây Kì-đà, gần thành Xá-vệ…..

[Đây là những điều chính tôi được nghe: Thuở đó đức Phật đang ngự tại vườn cây Am-la, thành Tì-xá-li…..

[Đây là những điều chính tôi được nghe: Thuở đó đức Phật đang ngự tại giảng đường Trùng-các trong tinh xá Đại-lâm, bên bờ ao Nhĩ-hầu, thành Tì-xá-li…..

[Đây là những điều chính tôi được nghe: Thuở đó đức Phật đang ngự bên bờ ao Yết-già, thành Chiêm-ba…..

[Đây là những điều chính tôi được nghe: Thuở đó đức Phật đang ngự tại đỉnh núi Già-da, thành Già-da…..

[Đây là những điều chính tôi được nghe: Thuở đó đức Phật đang ngự tại vườn Cù-sư-la, nước Siểm-di…..

[Đây là những điều chính tôi được nghe: Thuở đó đức Phật đang ngự tại vườn A-du-xà trong rừng Ca-la-ca, thành Ta-chỉ-đa…..

[Đây là những điều chính tôi được nghe: Thuở đó đức Phật đang ngự tại vườn Ni-câu-đà, ở ngoại ô thành Ca-tì-la, trú xứ của dòng họ Thích-ca…..

[Đây là những điều chính tôi được nghe: Thuở đó đức Phật đang ngự tại vườn Cưu-cưu-tra, thành Ba-li-phất…..

[Đây là những điều chính tôi được nghe: Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Tần-đà, gần thành Ma-du-la…..

[Đây là những điều chính tôi được nghe: Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, bên bờ sông A-lị-la-bạt-đề, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ…..]

“Này A Nan! Tuần tự như thế, chỗ này chỗ khác, những nơi Như Lai đã nói pháp; chỗ này chỗ khác, những nơi đại chúng đã tụ họp; tùy theo thời tiết, tùy theo nghĩa lí câu nói, tùy theo nhân duyên phát khởi cuộc vấn đáp; tùy theo vì người mà nói hay vì sự việc mà nói, nhằm phân biệt rõ ràng trí biết của đối tượng nói pháp; tùy theo ý vị của danh xưng, nghĩa lí của câu nói mà tuần tự diễn nói mọi thứ; tùy theo đầu mối có nhân có duyên, nghĩa khéo ý hay, rộng rãi vì người mà nói. Và kết kinh như vầy: [Phật nói kinh này rồi, tất cả đại chúng đều hoan hỉ, và ghi nhớ, hành trì.]

“Này A Nan! Thầy cứ theo cách đó mà kết tập Pháp Nhãn, hãy phân biệt mọi thứ như thế mà diễn nói rõ ràng.”

Đức Phật dạy xong những lời như trên, đại địa liền chấn động sáu cách rất dữ, làm cho nhiều người sợ sệt đến dựng tóc gáy. Ngay lúc bấy giờ, toàn cõi thế giới ba ngàn này chấn động sáu cách: phía Đông vọt lên, phía Tây chìm xuống; phía Tây vọt lên, phía Đông chìm xuống; phía Nam vọt lên, phía Bắc chìm xuống; phía Bắc vọt lên, phía Nam chìm xuống; chính giữa vọt lên, ngoài biên chìm xuống; ngoài biên vọt lên, chính giữa chìm xuống; và hiện rõ mười tám tướng trạng: rung động, rung động khắp, rung động đều khắp, vọt lên, vọt lên khắp, vọt lên đều khắp, vang rền, vang rền khắp, vang rền đều khắp, gầm thét, gầm thét khắp, gầm thét đều khắp, khởi lên, khởi lên khắp, khởi lên đều khắp, thức tỉnh, thức tỉnh khắp, thức tỉnh đều khắp.

Cũng ngay lúc ấy, vô lượng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Đế Thích, Phạm Thiên, Hộ Thế Thiên Vương, Người, không phải người, đều buồn khóc, nước mắt ràn rụa, than rằng: “Đức Thế Tôn nhập niết-bàn sớm quá! Đức Thiện Thệ nhập niết-bàn sớm quá! Con mắt của thế gian ẩn mất sớm quá! Con mắt của thế gian mù lòa mất đi sớm quá!”

Tôn giả A Nan cũng buồn khóc, chảy nước mắt than rằng: “Đức Thế Tôn nhập niết-bàn sớm quá! Đức Thiện Thệ nhập niết-bàn sớm quá! Con mắt của thế gian ẩn mất sớm quá! Con mắt của thế gian mù lòa mất đi sớm quá! Bậc Đạo Sư của thế gian ẩn mất sớm quá!”

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo:

“Này A Nan! Thầy chớ nên lo buồn! Tất cả pháp hữu vi, pháp sinh, pháp có, pháp phân biệt, pháp hiểu biết, pháp nhân duyên sinh, pháp hoại diệt, những pháp đó nếu không hủy diệt thì không có lẽ đó.

“Này A Nan! Trong thời gian lâu dài, thầy đã đem cả thân miệng ý từ hiếu hầu hạ Như Lai, một lòng một dạ, luôn luôn an lạc, không giận không hờn, không oán than trách móc. Do đó mà thầy có được công đức lớn, và sẽ được thần thông lớn, như cam lồ bậc nhất trong cùng tận cam lồ.

“Vì vậy cho nên, này A Nan! Đối với các bậc tu hành phạm hạnh, thầy cũng nên đem thân miệng ý từ hiếu mà cung kính cúng dường; hãy học theo những điều Như Lai đã làm. Vì sao vậy? Này A Nan! Sau khi Như Lai diệt độ, trong đời vị lai, khi còn năm trăm năm nữa thì chánh pháp bị hủy diệt, lúc ấy, những người giữ giới, thực hành chánh pháp thì dần dần mất đi, còn những người phá giới, làm chuyện phi pháp thì đông đúc hưng thịnh. Người ta chỉ có hủy báng chánh pháp, mạng sống thì ngắn ngủi. Đó là thời kì chúng sinh hoại diệt, chánh pháp hoại diệt, tì-kheo tăng hoại diệt. Này A Nan! Đó là thời kì thật đáng sợ! Có các tì-kheo không tu thân, không tu tâm, không tu giới, không tu tuệ, chỉ tham đắm vào sáu thứ: bình bát, y phục, ăn uống, giường ghế, nhà cửa, và thuốc thang, thứ nào cũng phải thuộc loại thắng diệu. Họ lại còn tranh giành, kiện tụng, đem nhau lên cửa quan, miệng lưỡi chẳng khác nào dao kiếm. Họ phỉ báng nhau, ganh ghét nhau, tất cả đều chỉ vì y phục, bình bát, ăn uống, giường ghế, nhà cửa, thuốc thang. Tâm họ không còn thuần thục, mà chỉ ganh ghét nhau, đối xử với nhau bằng tâm dơ bẩn.

“Vì vậy cho nên, này A Nan! Đối với các bậc tu hành phạm hạnh, thầy nên đem thân miệng ý từ hiếu mà đối xử, nên cúng dường đầy đủ những vật dụng cần yếu. Đối với những bậc tu hành phạm hạnh, hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc thô, hoặc tế, hoặc tin, hoặc làm, không được gây não loạn. Nên tu học như thế! Vì sao vậy? Này A Nan! Đó là thời kì thật đáng sợ, đầy dẫy dơ bẩn: mạng sống dơ bẩn, số kiếp dơ bẩn, chúng sinh dơ bẩn, thấy biết dơ bẩn, phiền não dơ bẩn; con người lúc đó phải chịu đau khổ vô cùng, luôn luôn bị các nỗi khổ làm cho bức não, bị đói khát cùng cực, bệnh tật triền miên, giặc cướp hoành hành, hạn hán trầm trọng, nạn nước ngập tràn, trùng độc bức hại.

“Này A Nan! Lúc bấy giờ, các vị bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ, tuy cũng phải chịu chung những nỗi đau khổ ấy, nhưng do đã từng có lòng tin thanh tịnh, cung kính tôn trọng Phật Pháp Tăng, luôn luôn giữ vững lòng tin sâu sắc. Lòng tin Phật Pháp Tăng này chính là nhân duyên tốt, khiến cho họ vừa gặp các vị tì-kheo thì liền phát sinh niềm tin sâu sắc. Họ cúng dường và tạo nhiều công đức. Họ thọ trì giới cấm, đọc tụng kinh điển, vì người mà giảng nói. Những người được nghe pháp đều rất hoan hỉ và tỏ lòng quí kính đối với họ. Họ y theo giáo pháptu hành để trồng căn lành. Do căn lành đó mà sau khi mạng chung, họ được sinh về các cõi lành Trời và Người.

“Này A Nan, thầy hãy xem đó! Các vị tì-kheo xấu ác kia, do lòng tinbỏ nhà đi xuất gia; nhưng khi đã được xuất gia rồi thì lại tham đắm sáu thứ y, bát, vân vân, phải đọa vào ba đường ác. Còn người cư sĩ tại gia, vì bị đau khổ bức não nên khởi tâm kính tin Phật Pháp Tăng, do lòng tin đó mà trồng được căn lành, được sinh về các cõi lành. Vì vậy cho nên, này A Nan! Hãy giữ đúng luật nghi cho thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp! Hãy quán niệm như thế này: [Tôi nguyện sớm có được đầy đủ tâm kính tín! Tôi nguyện sớm có được đầy đủ tâm chánh trực! Tôi nguyện tâm ý lúc nào cũng suy nghĩ đến điều lành!] Vì sao vậy? Này A Nan! Nếu không luôn suy nghĩ đến điều lành thì thân miệng ý sẽ tạo ra năm tội lỗi: 1) nói dối, 2) nói hai lưỡi, 3) nói lời thêu dệt, 4) tham dục, 5) sau khi chết phải đọa lạc vào ba đường dữ. Này A Nan! Người luôn suy nghĩ đến điều lành sẽ được công đức và năm lợi ích: 1) không nói dối, 2) không nói hai lưỡi, 3) không nói lời thêu dệt, 4) không tham dục, 5) sau khi mạng chung sẽ được sinh về các cõi lành Trời và Người. Lại nữa, này A Nan! Nếu người vì tranh giànhthóa mạ hủy báng nhau, tâm không nhu hòa, tâm dơ bẩn biến hoại, thì người ấy sẽ tạo ra năm tội lỗi: 1) nói dối, 2) nói hai lưỡi, 3) đối với người giữ giới không sinh lòng kính tin, 4) tâm ý ác độc, ngày đêm lo âu khổ não, 5) sau khi mạng chung sẽ đọa vào ba đường dữ. Này A Nan! Nếu lại có người luôn an trú trong tâm từ thiện, sẽ được công đức và mười một lợi ích: 1) có giấc ngủ an ổn, khi thức dậy tâm liền hoan hỉ, 2) không có ác mộng, 3) được loài người và những loài không phải người quí mến, 4) được chư thiên ủng hộ, 5) các chất độc không làm hại được, 6) binh khí không gây thương tổn được, 7) lửa không thể thiêu đốt, 8) nước không thể nhận chìm, 9) thường có đủ các vật dụng cần yếu như y phục, ăn uống, giường ghế, thuốc thang, 10) có được phong cách của bậc thượng nhân, 11) sau khi mạng chung sẽ được sinh lên cõi trời Phạm-thiên. Này A Nan! Người luôn an trú trong tâm từ thiện sẽ được công đức và mười một lợi ích như thế.

“Vì vậy cho nên, này A Nan! Dù ở lúc Như Lai còn tại thế, hay sau khi Như Lai đã diệt độ, quí thầy hãy tự thắp sáng ngọn đèn chánh pháp cho chính mình, hãy tự làm chỗ quay về nương tựa cho chính mình; đừng nên mong cầu ngọn đèn nào khác, đừng nên mong cầu chỗ quay về nào khác!

“Này A Nan! Thế nào là vị tì-kheo tự thắp sáng ngọn đèn chánh pháp cho chính mình, tự làm chỗ quay về nương tựa cho chính mình; thế nào là không mong cầu ngọn đèn nào khác, không mong cầu chỗ quay về nào khác? Này A Nan! Nếu có vị tì-kheo tuần tự quán chiếu nơi thân mình một cách chuyên cần tinh tấn, một niệm không loạn động, dứt trừ tâm tham ái, ưu phiền đối với thế gian; quán chiếu nơi thân mình như thế, rồi quán chiếu nơi cảm thọ, nơi tâm thức, nơi các pháp cũng như thế, một cách chuyên cần tinh tấn, một niệm không loạn động, dứt trừ tâm tham ái, ưu phiền đối với thế gian; này A Nan! Như thế là vị tì-kheo tự thắp sáng ngọn đèn chánh pháp cho chính mình, tự làm chỗ quay về nương tựa cho chính mình, không mong cầu ngọn đèn nào khác, không mong cầu chỗ quay về nào khác.

“Vì vậy cho nên, này A Nan! Như Lai là bậc Đạo Sư, đối với hàng Thanh-văn, những gì cần làm Như Lai đã làm xong. Quí thầy cũng cứ theo như thế mà làm. Đó là giáo huấn của Như Lai. Quí thầy nên ở nơi tịch tĩnh, nơi bãi tha ma, nơi bãi đất trống, nơi nhà vắng, mà nhất tâm tu tập phép chỉ quán, suy nghĩ đến việc chấm dứt cội gốc khổ đau, chớ có buông lung! Nếu quí thầy buông lung, về sau chắc chắn phải ưu phiền, hối hận.!”

Đến đây đức Phật liền nói kệ rằng:

“Như Lai đã chỉ con đường chánh

Đã nhổ các mũi tên vô trí

Quí thầy nên chuyên cần tu tập

Theo giáo pháp chư Phật đã nói

Nhằm gột sạch mọi thứ kiến chấp

Ngoài ra không con đường nào khác

Người nào tu thì được giải thoát

Có thể dứt trừ các ma nghiệp

Nếu ai tu hành theo con đường

Đúng như chư Phật đã chỉ dạy

Chắc chắn vượt thoát mọi khổ ách

Đầy đủ nguyện lực của chư Phật”

Đức Phật nói kinh này xong, tôn giả A Nan cùng chư vị tì-kheo, các chúng từ các nơi đến, các chúng Trời, Người, A-tu-la, Càn-thát-bà, vân vân tất cả thế gian, nghe Phật dạy xong, tùy theo tâm trạng mà người vui kẻ buồn, chắp tay cúi đầu, buồn đau rơi lệ, đấm ngực khóc lóc; tất cả đều ghi nhớ và hành trì.

 

HẾT

 

(Kinh Đại Bi, cư sĩ Hạnh Cơ trích dịch từ Tạng Đại Chánh, quyển 12, kinh số 380, trang 945-973)

 

 

Ghi chú của người dịch

 

1) Kinh Đại Bi (Maha-karuna-pundarika) ghi lại những lời dạy cuối cùng của đức Phật trước giờ phút nhập niết-bàn. Nội dung của những lời dạy này, điều vô cùng quan trọng mà đức Phật đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần, là các đệ tử của Phật, từ đời này qua đời nọ, phải nối tiếp nhau truyền bá chánh pháp, làm cho chánh pháp lưu bố rộng rãi khắp các cõi Trời, Người, và tồn tại lâu dàithế gian, đem lại lợi ích, an lạc cho tất cả chúng sinh. Muốn thực hiện được công việc trọng đại đó – hoằng hóa độ sinh – các đệ tử Phật phải dũng mãnh phát tâm ĐẠI BI, tức lòng thương rộng lớn, muốn cứu độ tất cả chúng sinh thoát khỏi bể khổ sinh tử, chứng nhập cảnh giới niết-bàn an vui tịch tĩnh. Đó là ý nghĩa của tên kinh “Đại Bi”. Kinh này đã được pháp sư Na Liên Đề Da Xá (Narendrayasas, 490-589), người nước Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn vào năm 570, tại kinh đô Nghiệp-thành của nước Bắc-Tề (550-577), Trung-hoa, được thu vào Tạng Đại Chánh, quyển 12, mang số 380, trang 945-973.

 

2) Có vài độc giả nêu thắc mắc rằng: Tôn giả La Hầu La đã viên tịch trước đức Thế Tôn, tại sao trong kinh Đại Bi này tôn giả vẫn có mặt trong giờ phút đức Thế Tôn sắp nhập niết-bàn?

Chúng tôi xin thưa: Đây thuộc về vấn đề lịch sử. Các nhà nghiên cứu sử học đều công nhận rằng, người Ấn-độ thời xưa rất ít quan tâm đến vấn đề sử học, cho nên, muốn biết chắc chắn một sự kiện, dù quan trọng hay không, xảy ra đúng vào thời điểm nào, đó là việc vô cùng khó khăn. Trường hợp tôn giả La Hầu La ở đây là một thí dụ điển hình. Tôn giả nhập diệt vào lúc nào? Trong tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, pháp sư Tinh Vân (Đài-loan) viết: “Trước hết, ngay như về ngày sinh của tôn giả cũng đã có hai thuyết, một cho rằng tôn giả ra đời năm Phật mười chín tuổi; một cho rằng tôn giả ra đời năm Phật hai mươi lăm tuổi. Cho nên về niên đại nhập diệt, hiện cũng có hai thuyết, một bảo rằng tôn giả đã nhập diệt trước Phật vài năm; một bảo rằng trong giờ phút Phật nhập niết bàn, tôn giả vẫn có mặt bên cạnh Phật.” (Xin xem sách Mười Vị Đệ Tử Lớn của Phật, bản Việt dịch của cư sĩ Hạnh Cơ, có đăng trên các trang mạng Phật giáo: Pháp Vân, Quảng Đức, Hoa Vô Ưu, Thư Viện Hoa Sen.)

 

3) Có một độc gỉa yêu cầu giải thích chữ “kiếp”.

Thông thường chúng ta hay nói: kiếp trước, kiếp này, kiếp sau, v.v… Chữ “kiếp” ở đây có nghĩa là một đời người trong khoảng mấy chục hay một trăm năm, kể từ ngày sinh ra đời cho đến ngày chết. Trong kinh điển Phật giáo, chữ “kiếp” được dùng với ý nghĩa khác hẳn, không phải là một trăm năm, và không phải là quá ngắn ngủi như thế.

“Kiếp” là tiếng nói tắt của Phạn ngữ “kiếp-ba” (kalpa); dịch ra Hán ngữ là “thời phần” hay “đại thời”, nghĩa là một khoảng thời gian rất dài, không thể nào dùng số ngày, tháng, năm thông thường mà đếm được. Kiếp có đại, trung và tiểu khác nhau. Các kiếp đại, trung hay tiểu này đều y nơi mạng sống tăng và giảm của con người mà tạm tính toán. Theo như luận Đại Trí Độ nói, thọ mạng của con người từ mười tuổi, cứ mỗi một trăm năm tăng một tuổi, tăng cho đến tám vạn bốn ngàn tuổi thì ngưng; rồi lại cứ một trăm năm giảm một tuổi, giảm cho đến còn mười tuổi thì ngưng; một lần tăng và một lần giảm như vậy là một tiểu kiếp. Hai mươi tiểu kiếp là một trung kiếp. Trải qua bốn trung kiếp Thành, Trụ, Hoại và Không (hoặc tám mươi tiểu kiếp) là một đại kiếp. Đó là thời gian của một thế giới từ lúc hình thành cho đến lúc hủy diệt.

Vậy:

- Một tiểu kiếp = (84000 - 10) x 100 x 2 = 16.798.000 năm.

- Một trung kiếp=20 tiểu kiếp=16798000x20=335.960.000 năm.

- Một đại kiếp=4 trung kiếp=335960000x4=1.343.840.000 năm.

 

4) Có Quí Vị hỏi về một số thuật ngữ Phật học trong kinh này, như: hành, niết-bàn, na-do-tha, bốn cách thu phục (tứ nhiếp pháp), bốn đức không sợ sệt (tứ đức vô úy), mười tám pháp không cùng chung (thập bát bất cộng pháp), ba mươi bảy pháp trợ đạo (tam thập thất trợ đạo phẩm), v.v… Xin Quí Vị vui lòng tham khảo ở các sách như Trích Lục Từ Ngữ Phật Học, Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản, do Hạnh Cơ biên soạn (có đăng trên các trang mạng Phật giáo: Pháp Vân, Quảng Đức, Hoa Vô Ưu, Thư Viện Hoa Sen), hoặc các bộ Từ Điển Phật Học khác.

Xin chân thành cám ơn Quí Vị.

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19688)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23954)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41211)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19689)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23976)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21741)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23292)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27498)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26561)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29311)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33178)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20182)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25761)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20905)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31301)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38557)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21425)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44242)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29816)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42189)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22131)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45737)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32103)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23947)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24378)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29247)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33910)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27678)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32122)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21058)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28842)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21564)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28055)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22059)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21421)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19490)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19459)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19832)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19236)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29171)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20610)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28276)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23647)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33165)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31834)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21366)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39612)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21543)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19369)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26370)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24813)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21751)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22375)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29126)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22552)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20468)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23510)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21231)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35307)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24541)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant