Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Luận Quán Sở Duyên Duyên

24 Tháng Tư 201700:22(Xem: 11162)
Luận Quán Sở Duyên Duyên

LUẬN QUÁN SỞ DUYÊN DUYÊN

 

Bồ-tát Trần Na tạo luận.[1]

Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch.

Việt dịch: Quảng Minh

 

            [888b07] Có những người chủ trương lấy ngoại sắc làm sở duyên và duyên cho năm thức: nhãn thức, v.v…; họ chấp rằng cực vi là có thật thể, vì nó dẫn sinh ra sự nhận thức; hay họ chấp rằng cực vi hòa hợp, vì khi nhận thức sinh khởimang theo hình tướng của cực vi hòa hợp. Cả hai chủ trương ấy đều phi lý. Vì sao?

 

            Cực vi đối năm thức

            Làm duyên, chẳng sở duyên

            Trong thức không tướng chúng

            Giống như nhãn căn, v.v…

 

            [888b12] Sở duyên là cái mà thức năng duyên mang theo hành tướng[2] của nó khi sinh khởi, và duyên là cái có tự thể thật hữu để thức năng duyên dựa vào đó mà sinh khởi. Nếu cực vi của sắc các thứ mà có tự thể thật hữu và có khả năng sinh ra nhận thức của năm thức, thì chúng chỉ có nghĩa là duyên (: điều kiện), chứ không phải là sở duyên (: đối tượng của thức). Như nhãn căn, v.v…, đối với nhãn thức, v.v…, chúng không có đặc tính của nhận thức. Như vậy, cực vi đối với năm thức: nhãn thức, v.v…, nó không có cái nghĩa sở duyên.

 

            Hòa hợp đối năm thức

            Làm sở duyên, chẳng duyên

Thể kia không thật hữu

Như mặt trăng thứ hai.

 

[888b18]  Đối với nhãn thức thì sắc có tính chất hòa hợp[3]. Giả sử cái hòa hợp tuy có thể là sở duyên của năm thức nhưng không phải là duyên, vì tự thể của nó không thật hữu, cũng như con mắt rối loạn thấy mặt trăng thứ hai[4]. Mặt trăng ấy không có thật thể nên không thể sinh ra cái thấy chính xác. Như vậy, đối với năm thức, cái hòa hợp của sắc, v.v… không thể làm duyên.

Đối với sở duyên và duyên, cả hai chủ trương trên đều thiếu sót một phần, cho nên cả hai không đúng.

Có người chấp rằng sắc, thanh, v.v…, mỗi trần cảnh có nhiều hình thái, mà một phần nào của những hình thái ấy là cảnh hiện lượng. Các cực vi hỗ trợ nhau, mỗi cực vi có chung tính chất là hòa tập. Tính chất này là thật hữu, cho nên mỗi cực vi có khả năng phát sinh ra sự nhận thứctính chất tương tự nó. Do đó cực vi làm sở duyên và duyên cho năm thức. Điều này cũng phi lý. Tại sao?

 

Hòa tập như cứng, v.v…

Trong năm thức: nhãn, v.v…

Làm duyên, chẳng sở duyên

Tính cực vi vẫn vậy.

 

[888b27]  Những tính chất như cứng, ướt, ấm, động tuy là thật có, nhưng đối với năm thức chúng chỉ có thể là duyên, chứ không phải là sở duyên, bởi vì trên nhận thức của năm thức không có những tính chất ấy. Tính chất hòa tập của cực vi của sắc các thứ, lý cũng phải vậy. Cả hai chấp trên[5] làm thành tính chất của cực vi. Nếu chủ trương năm thức có thể duyên được với cực vi, thì tính chất hòa tập của cực vi lại có lỗi riêng.

 

Tri giác về bình, chậu

Kia chấp cũng không khác

Chẳng hình khác biết khác

Hình khác không thật có.

 

[888c04]  Các đồ vật như bình, chậu, … lớn hay nhỏ khác nhau, nhưng những cực vi tác thành chúng dù nhiều hay ít thì vẫn giống nhau về tính chất; vậy sự tri giác lấy đồ vật làm đối tượng hẳn phải không khác nhau. Nếu cho rằng hình tướng của đồ vật kia khác nhau, nên sự tri giác cũng khác nhau; lý lẽ đó không đúng.

Hình dáng riêng của nắp bình, v.v… chỉ có nơi cái bình, v.v… là giả pháp, trên đó có cái chẳng phải cực vi, vì vậy không nên chấp cực vi cũng có hình tướng sai biệt. Vì sao?

 

Lượng cực vi bằng nhau

Dáng khác kia là giả

Tách chúng thành cực vi

Tri giác kia phải bỏ.

 

[888c11] Không phải những cực vi tạo thành bình, chậu, v.v… có hình lượng khác nhau, bởi vì bỏ đi tính chất tròn và nhỏ của cực vi thì biết những hình dáng khác nhau kia chỉ là giả, không thật. Lại nữa, những đồ vật có hình dáng khác nhau kia, nếu tách chúng ra thành cực vi thì sự tri giác về đồ vật kia chắc chắn không còn, nó chẳng còn là vật có sắc chất xanh, vàng, đỏ, trắng, v.v… Chia chẻ đến cực vi thì sự tri giác về hình tướng phải xả bỏ. Điều đó cho thấy hình tướng khác nhau chỉ là sự hiện hữu thế tục[6], chẳng phải như sắc chất xanh, vàng, đỏ, trắng v.v… nơi vật thật. Như vậy, đối với năm thức, thể của sở duyên và duyên chẳng ngoài sắc, thanh, hương, vị, xúc; lý lẽ ấy hoàn toàn thành tựu.

Sở duyên và duyên ấy là hoàn toàn không có hay chẳng phải hoàn toàn không có? Vì sao?

 

Nội sắc như ngoại hiện

Sở duyên, duyên cho thức

Tính chúng ở trên thức

Và làm thức phát sinh.

 

[888c19] Ngoại cảnh dù không có mặt thì vẫn có nội sắc là tợ ngoại cảnh hiện hành, làm sở duyên và duyên. Chấp nhận năm thức sinh khởi mang theo những ấn tượng của nội sắc, và năm thức từ những ấn tượng ấy sinh khởi, vì có đủ hai nghĩa: sở duyên và duyên.

Ấn tượng nội cảnh ấy đã không rời thức, nó cùng sinh khởi với thức như thế nào để có thể làm duyên cho thức?

 

quyết định theo nhau

Cùng thời để làm duyên

Cái trước làm duyên sau

Công năng dẫn cái sau.

 

[888c24] Ấn tượng nội cảnh và thức quyết định đi theo nhau. Tuy ấn tượng nội cảnh đồng thời sinh khởi với thức, nhưng nó lại làm duyên cho thức. Luận sư Nhân minh nói rằng, ấn tượng nội cảnh và thức có hay không có đi theo nhau, tuy nhiên, khi chúng đồng thời sinh khởi thì cũng có tính chất nhân quả với nhau[7]. Tướng phần của thức niệm trước làm duyên cho thức niệm sau sinh khởi, tức là nói cái công năng dẫn sinh tợ tự quả từ trong [chủng tử của] bản thức khiến cho thức sau sinh khởi, và điều đó không trái với lý lẽ.[8]

Nếu năm thức sinh khởi chỉ duyên với nội sắc, thì làm sao cũng nói nhãn căn, v.v… làm duyên?

 

Công năng sắc trên thức

Gọi năm căn, hợp lý

Công năng và cảnh sắc

Vô thủy, nhân cho nhau.

 

[889a02] Do công năng phát sinh nhận thức nên suy luận biết là có căn. Đó là công năng[9] của căn, chứ không phải là cái được tạo tác ở bên ngoài.  Công năng của năm sắc căn ấy dựa trên bản thức, nên gọi là nhãn căn, v.v…[10], điều này cũng không trái lý lẽ, vì cái lý về công năng phát sinh nhận thức là không có pháp nào khác ở ngoài tâm. Không thể nói được rằng công năng ấy ở nơi thức hay ở nơi cái khác, nhưng cho rằng các pháp ở ngoài tâm, lý ấy không có, vì vậy phải nhìn nhận rằng, công năng ấy ở nơi thức chứ không ở nơi cái khác. Công năng của năm căn và nội cảnh sắc nói trên, từ vô thủy đến nay lần lượt làm nhân cho nhau, nghĩa là công năng ấy khi đến giai đoạn thành thục[11] thì có khả năng sinh ra năm loại nội cảnh sắc trên mặt hiện hành của năm thức. Những nội cảnh sắc ấy trong thức dị thục lại có khả năng dẫn khởi công năng của năm căn. Hai sắc là căn và cảnh cùng với thức, hoặc chúng là một với thức, hoặc là khác với thức, hoặc là chẳng phải một với thức, hoặc là chẳng phải khác với thức[12], đó là tùy ý thích mà nói như vậy. Tóm lại, các thức chỉ lấy ấn tượng nội cảnh sắc làm sở duyên và duyên. Lập luận này khéo thành lập.

 

@23/4/2017



[1] Trần Na (陳那, Dignàga hay Màhadignàga), Hán dịch là Đồng Thọ hay Vực Long, sinh ở cuối thế kỷ thứ 5, tại Kiến Trì Thành (Kàncipura) thuộc nước Đạt La Tỳ Trà (Dràvida), Nam Ấn.  Lúc đầu ngài học giáo lý Hữu bộ, sau chuyển sang học giáo lý Đại Thừa, kế thừa tư tưởng A lại da duyên khởi của Vô TrướcThế Thân.   Lúc lưu lại đại tu viện Na Lan Đà, ngài đã đánh bại lý luận của một nhà luận lý nổi tiếng Bà la môn tên là Sudurjaya trong một cuộc tranh luận tôn giáo. Ngài cũng chu du đến Odivisa (Orissa) và Maharattha và có các cuộc tranh luận với các học giả ở đây. Ngài cũng tinh thông môn lý luận của phái Chính Lý (Nyàya) là Nhân minh học (Hetuvidhyà), nhưng thấy còn phức tạp với 5 giai đoạn: Tôn, Nhân, Dụ, Hợp và Kết, nên ngài đã giản lược chỉ còn có 3 là: Tôn, Nhân, Dụ. Nó đã trở thành môn Luận lý học Phật Giáo. Ngài là sơ tổ của tông Nhân Minh. Trong lịch sử luận lý học của Phật giáo, tên tuổi của Trần Na chiếm một vị trí nổi bật. Ngài là người sáng lập ra lý luận Phật giáo, được gọi là cha đẻ của luận lý học Trung cổ. Ngài được xem là tác giả của khoảng trên 100 bộ luận về luận lý học. Hầu hết các bộ luận nầy hiện còn được lưu lại qua các bản dịch chữ Hán. Theo Nghĩa Tịnh thì những bộ luận của Trần Na được dùng làm sách giáo khoa về lý luận vào thời của ông. Trong số các tác phẩm quan trọng của Trần Na có cuốn Tập lượng luận (Pramanana-samuccaya), tác phẩm vĩ đại nhất của ngài, Nhân minh nhập chính lý luận (Nyaya-pravesa), và nhiều bộ khác như Quán sở duyên duyên luận (Alambanaprtyaya-hyàna-sàstra, No. 1624), Thủ nhân giả thiết luận (No. 1622), Quán tổng tướng luận tụng (No. 1623), v.v… Luận Quán sở duyên duyên là một trong 11 bộ luận của tông Duy thức: 1. Luận Du-già sư địa; 2. Luận Hiển dương Thánh giáo; 3. Luận Đại thừa trang nghiêm kinh; 4. Luận Tập lượng; 5. Luận Nhiếp Đại thừa; 6. Luận Thập địa kinh; 7. Luận Quán sở duyên duyên; 8. Luận Đại thừa A-tỳ-đạt-ma tập; 9. Luận Duy thức nhị thập; 10. Luận Biện trung biên; 11. Luận Phân biệt Du-già.

[2] Chánh văn là tướng = hành tướng, ảnh tượng, ấn tượng. Cảnh bên ngoài tâm là đối tượng (sở duyên). Ảnh tượng tương tự đối tượng ấy xuất hiện trên tâm gọi là hành tướng. Tâm năng duyên có tướng tương tự sở duyên, gọi là đái (mang theo).

[3] Chủ trương của Kinh bộ (Sautrāntika): cực vi thực hữu, nhưng đặc tính của nó không xuất hiện trên thức do đó không phải là đối tượng của thức. Hòa hợp là tập hợp của nhiều cực vi. Thể hòa hợp là giả, y trên cực vi thực hữu mà tồn tại. Khi được nhận thức, đặc tính của thể hòa hợp xuất hiện trên thức.

[4] Quan điểm của Kinh bộ: năm thức không duyên mặt trăng thứ hai.

[5] Chỉ cho tính cứng v.v… và tính hòa tập.

[6] Hiện hữu thế tục: trên bình diện thế tục đế thì các pháp là giả danh không thật.

[7] Chánh văn là Nhược thử dữ bỉ hữu vô tương tùy. Thử chỉ cho tướng phần. Bỉ chỉ cho kiến phần. Đây là nguyên tắc của lý duyên sinh về điều kiện tính, tương đối tính và tính tương quan, tương liên: “Cái này có thì cái kia có; Cái này sinh thì cái kia sinh; Cái này không có thì cái kia không có Cái này diệt thì cái kia diệt.” Hữu tương tùyhiện hành. Vô tương tùychủng tử.

[8] Trần Na theo quan điểm nhân quả dị thời của Kinh bộ. Kiến phần của thức thuộc sát-na sau lấy tướng phần của thức sát-na trước là đối tượng (sở duyên). Khi năm thức duyên đối tượng ngoại giới, tướng phần hiện hành của năm thức được huân tập thành chủng tử. Sát-na tiếp theo, chủng tử này xuất hiện thành hiện hành tướng phần làm đối tượng. Đây là thức niệm sau duyên đến thức niệm trước.

[9] Công năng = hiện sắc: từ chủng tử của chính nó, thức xuất hiện như là ảnh tượng.

[10] Chủng tử của năm thức là căn: nhãn căn, v.v… Tướng phần của năm thức là cảnh: sắc, v.v…

[11] Thành thục vị = quả báo vị.

[12] Căn, cảnh và thức là tướng phần, kiến phầntự chứng phần của thức. Về bản thể, tướng phầnkiến phần không rời tự chứng phần, nên nói là một. Về mặt hoạt dụng, sở duyênnăng duyên hoàn toàn có riêng khác, nên nói là khác. Hoạt dụng của tướng phần, kiến phầntự chứng phần có khác nhau, nên nói là chẳng một (khác). Hoạt dụng của cả ba tuy khác mà cùng chung bản thể là thức dị thục, nên nói chẳng khác (một).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32345)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6396)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11027)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30189)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30270)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7861)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 11962)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12130)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11451)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12483)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34283)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9668)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52063)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10580)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10331)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10536)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10311)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12905)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16009)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21601)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9491)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 6983)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10260)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12447)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12614)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16068)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16327)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13687)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16328)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11886)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13651)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14199)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9088)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11636)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 16046)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14214)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16049)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12580)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11904)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11638)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15519)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11361)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13876)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11862)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12414)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14789)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11834)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 12970)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14304)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20449)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13049)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10823)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20524)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14182)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20078)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17395)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13794)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31687)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11879)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 14591)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant