Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kệ Ca Ngợi Pháp Giới

27 Tháng Chín 201620:20(Xem: 11878)
Kệ Ca Ngợi Pháp Giới

KỆ CA NGỢI PHÁP GIỚI



   Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển 32, thuộc Luận Tập Bộ toàn, Kinh văn số 1675.

Thánh Long Thọ Bồ Tát tạo, Tây Thiên, nước Điểu Điền, chùa Đế-Thích Cung, Tam Tạng Truyền Pháp Đại Sư Sắc Tử Sa môn Thần Thí Hộ dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán.

Sa-môn Thích Như Điển, Phương Trượng chùa Viên Giác, Đức quốc dịch Hán- Việt, mùa An cư kiết hạ, Phật lịch 2551, nhằm ngày 09/08/2007 tại thư phòng chùa Viên Giác.

Tỳ Kheo Thích Hạnh Nhẫn góp phần hiệu đính xong lần thứ nhất ngày 22/9/2016



Quy mạng mười phương Phật

Pháp, Báo và Hóa Thân

Nguyện cùng các chúng sinh

Chóng thành Pháp giới tính.


Luân hồi ba đường ác

Lý pháp giới không động,

Xưa nay thường thanh tịnh

Các tướng chẳng thể đổi.


Tịch tĩnh như hư không

Trọn khắp  ở mọi chỗ

Thể đều lìa đây, kia

Không sâu cũng chẳng cạn.


Khi sữa chưa chuyển đổi

Chẳng thấy tô, đề-hồ,

Phiền não chưa hàng phục

Pháp giới do đâu hiển?


Như tô ở trong sữa

Tô vốn diệu quang minh,

Phiền não che pháp giới

Thể thanh tịnh viên mãn.


Như đèn bị ngăn che

Không thể chiếu vật khác,

Vô minh hằng che tâm

Pháp giới không sáng tỏ.


Như đèn lìa chướng ngại

Chiếu được vật khắp nơi,

Khi phá tan phiền não

Chân như thường hiển hiện.


Đầu, giữa và cuối cùng

Hai chướng không thể nhiễm,

Như châu lưu ly sạch

Ánh sáng thường tỏa chiếu.


Ánh sáng bị vật ngăn

Bị chướng chẳng thấy sáng,

Phiền não che pháp giới

Chân như khó hiện.


Thể viên tịch sáng sạch

Luân hồi không thể nhiễm,

Cần cầu đến pháp giới

Luân hồi chẳng thể che.


Như gạo trong vỏ trấu

Thể của gạo chẳng không,

Phiền não che Chân như

Phiền nãoChân như.


Như lột bỏ vỏ kia

Thể gạo tự nhiên hiện,

Nếu lìa vỏ phiền não

Lý pháp giới mới hiển.


Vọng chấpthế gian

Vỏ chuối rốt chẳng thật,

Pháp giới không thế gian

Hư vọng cũng không thấy.


Như người uống Cam-lộ

Nhiệt não trọn đều dứt,

Nếu chứng pháp giới tính

Nóng phiền não đều hết.


Diệt trừ diễm phiền não

Cam-lộ pháp giới hiện

Trong tất cả hữu tình

Cao, thấp đều bình đẳng.


Thể thật quả không sinh

Quả loại chấp không có,

Khi trí huệ sinh ra

Hữu vi không pháp giới.


Pháp giới vốn không nơi

Rốt ráo mới chứng được,

Thanh tịnh hằng sáng sạch

Nhật nguyệt đều sáng sạch.


Pháp giới không cấu nhiễm

Như bụi, đêm rồng mưa

Sánh tợ mặt La-hầu

Quang minh hằng xán lạn.


Ví như lửa tẩy vải

Chỗ lửa lìa được nhiễm,

Trừ bẩn chỉ còn vải

Quang minh chuyển sáng sạch.


Tham ái khiến tâm nhiễm,

Hư vọngluân hồi

Cũng như lửa tẩy vải

Chân không không có vọng.


Ba độc gốc sinh tử

Lửa trí tuệ thiêu được

Thể pháp giới thường có

Sáng trong thường chiếu diệu.


Nhiễm phiền não gọi nhơ

Thường được Thế Tôn nói,

Diệt nhơ, Chân như hiện

Như suối dẫn từ đất.


Nếu trừ sạch phiền não

Sáng sạch lớn khó lường,

Pháp giới vốn vô ngã,

Không nhị hình, nam, nữ.


Thể không, chấp hư vọng

Chỗ nào thêm nghĩ suy?

Pháp giới lìa yêu, ghét

Căn, trần, cảnh vốn không.


Chấp hư vọng làm nhân

Khác nhau sinh từ đây,

Chân không không khổ não

Tham ái – nhân khổ não.


Đắm nhiễm do vọng tưởng

Bèn luân hồi ba cõi,

Hoài thai ở trong bụng

Hài nhi chưa thể thấy


Hai chướng che Chân như

Không thể chứng pháp giới,

Sinh đủ loại nghi ngờ

Kiến, mạn và sân, si


Vọng chấpchân thật,

Chân thật - chấp không có,

Thể sừng thỏ không có

Vọng chấp khiến thành thật.


Pháp giới lìa vọng chấp,

Vọng chấp thực chẳngcó,

Như sắc ắt phá hoại

Vi trần khá biết được.


Pháp giới không phá hoại

Trong ba thời chẳng được,

Có sinh ắt có diệt,

Vinh nhục cũng đều theo.


Pháp giới không sinh diệt

Làm sao nói: Được biết?

Sừng thỏ vốn không có

Nghĩ được trong ba thời?


Chân không không sừng thỏ

Tư lự chẳng thể biết

Chân không gọi Thiện Thệ

Sắc tướng trọn đều mất.


Đáng độ, tùy duyên có

Tu nhân lìa chấp không,

Viên thông như nhật nguyệt

Nước hiện ảnh đều đồng.


Sắc, thanh cùng dứt sạch

Khác nhau có thế nào?

Ba thời khá tìm nghĩ

Khi sinh duyên quyết định.


Nếu ngộ pháp tự thân

Tự thân làm sao có?

Như nước ở chỗ nóng

Chỗ nóng giác ngộ không.


Chỗ lạnh cũng như thế

Viên thông đều như vậy

Phiền não hằng che tâm

Mê hoặc chẳng thể rõ.


Nếu lìa trói phiền não

Giác ngộ thời không có,

Như mắt quán các sắc

Lìa chướng được chiếu diệu.


chân không cũng thế

Chiếu diệu lìa sinh diệt,

Nhĩ thức nghe âm thanh

Lìa vọng và phân biệt.


Tính pháp giới cũng vậy

Vọng phân biệt không có,

Mũi ngửi được các hương

Tính vọng chấp không có.


Sắc tướng cả hai mất

Chân không cũng như thế

Tự tính thiệt căn không,

Vị giới hằng viễn ly.


Thể thức không cũng vậy

Lý pháp giới như thế,

Tự tính thân căn tịnh

Xúc lạnh, nóng không có.


Lý pháp giới cũng thế

Xúc xứ thường viễn ly,

Ý duyên pháp gọi nhất

Tự tính thường viễn ly.


Tính chư pháp vốn không

viên thông như vậy,

Thấy nghe và giác biết

Pháp tương ưng cũng không.


Liễu tuyệt các vọng tưởng

Lý: Thấy nghe cũng không,

Căn- trần, khởi vọng chấp

Thể thanh tịnh vốn không.


Mê chấp, có căn – trần

Lý: Căn trần không có,

Thế gianxuất thế

Tính không vốn chẳng khác.


Ngã, pháp do mê khởi

Chấp khắp, tự luân hồi,

Lý pháp giới thanh tịnh

Tham, sân, si vốn không.


Mê, ngộ từ tâm khởi

Pháp tam độc giả danh,

Mê chấp tự trói buộc

Trí- liễu đạt giả danh.


Bồ-đề chẳng xa gần

Lý: Ba thời không có,

Lồng phiền não mê chấp

Kinh Thế Tôn đã nói.


Trí sinh- hoặc nhiễm diệt

Vọng chấp- vật trói buộc,

Đi lại chấp tối thắng

Thể không còn khá nghĩ


Bồ-đề không vọng chấp

Chứng chính cũng biết không,

Nước, sữa cùng một chỗ

Ngỗng uống sữa không nước.


Sinh không lìa phiền não

Hai chướng cũng không tạp

Vọng chấp ngã chẳng không,

Liễu đạt vốn không có.


Niết-bàn thanh tịnh

Hai ngã cùng không lập

Tam đàn trai tu thí

Trì giới lìa lỗi lầm.


Nhân Nhẫn – quả đoan chính

Nương tinh tấn, dũng cần,

Tĩnh lự khiến tâm định,

Bát-nhã dụng vô ngại


Nguyện kèm lực phương tiện

An trụ thắng Bồ-đề,

Bồ-đề khó vọng chấp

Chân không chẳng sinh diệt.


Liễu đạt bản tính không

Hai tướng cùng không có,

Sữa đường lìa cây mía,

Lìa mía, không có đường.


Giữ gìn hạt lúa mạch

Mầm nhánh ắt được sinh,

Gìn giữ giống Bồ-đ

Bồ-đề từ đây sinh.


Ví như trăng trong ám

Còn chưa thấy ánh sáng,

Phiền não trói hữu tình

Chân như chưa thể thấy.


Trăng non tuy có sáng

Từ từ mà tăng trưởng,

Sơ địa chứng Bồ-đề

Bồ-đề chưa viên mãn;


Mười lăm trăng tròn đầy

Nơi nơi ánh sáng chiếu,

Giải thoát hiển pháp thân

Lý Pháp thân không khuyết.


Ý tương ưng nhiễm ô

Trói buộc cùng sinh diệt,

Giải thoát tất cả chướng

Ngộ ba thời không có.


Đủ a-tăng- kỳ đầu

Tam đàn tu khắp cả

Đoạn trừ chướng phân biệt

Trí Hoan h khó sánh.


Ba nghiệp lầm kiêm phạm

Phòng lỗi nặng và nhẹ

Thi-la giới viên mãn,

Ly- cấu độc nêu danh.


Hai chướng hằng thời nhiễm

Đao tuệ trừ, đều không,

Phát Quang được chiếu diệu

Phá diệt lần không sót;


Lìa xa căn tùy nhiễm

Dần tăng uy Diễm Tuệ

Bồ- đề xưng tối thắng

Thiêu chiếu chuyển sáng chói.


Hai đế gọi Chân, Tục

Tương ưng, nếu mâu thuẫn

Hợp lại khiến không ngại

Nan Thắng sự hằng thời


Mười hai duyên sinh trí

Đường về lý tuần hoàn,

Tối thắng thâm sâu nhất

Bát-nhã hiện ở trước.


Hành thế gian, Nhị thừa

Đạo tu lâu đã tỏ

Đủ tướng Vô công dụng

Sau rốt gọi Viễn Hành.


Dụng trí vô phân biệt

Tùy duyên tự nhiên thành,

Hàng chúng ma thối tán
Bất Động danh rực rỡ.


Thiện Tuệ gọi vô ngại

Mười phương diễn pháp hiếm

Thân trút mưa Cam lộ,

Hiện chỗ nương tối thắng.


Các đức giống như nước,

Thân dụ như hư không,

Thô nặng đều che lấp

Đại Pháp Trí-gọi Mây.


Xét kỹ việc luân hồi

Ai tránh được nghiệp dẫn?

Phải biết không khổ não

Tịnh độ chớ nghĩ: Phiền.


Quy mạng chân Phật tử

Lên vị Mây Trí Tuệ

Tế vi đều đoạn sạch

Vượt khổ, lìa các trần.


Quán đỉnh các quang chiếu

Thân khắp các căn, trần

Đại định Kim Cang tịch

Các khổ chẳng theo thân;


Tòa Đại Bảo Hoa Vương

Thành bởi vô lượng diệu

Khắp phổ biến trang nghiêm

Công đức thật khó nghĩ;


Mười phương đều vô úy

Đủ ba thân, bốn trí,

Sáu thông luôn tự tại

Ứng vật độ cơ duyên;


Chiếu diệu như trăng tròn

Lửa hừng hực cháy luôn

Mười phương đâu chẳng khắp

Xán lạn chuyển rực rỡ.


Vĩnh viễn dứt duyên nhiễm

Nơi chỗ luôn Niết-bàn

Gọi Bồ-đề tối thắng

Hóa vật lợi tình vui.


Dụng trí sâu như biển

Theo cơ hiện Ứng thân

Nước trong trăng ảnh hiện

Khắp chốn độ mê tân.


Giống như báu Pha-chi

Tùy duyên hiện ảnh đồng

Căn tình vật có cảm

Biến khắp sự vô cùng.


Ngạ quỷ luôn đói khát

Chẳng thấy được suối nước,

Chúng sinh không chút tín

Nghiệp xưa tự trói buộc.


Hóa hiện các tướng thân

Ánh sáng đều rực rỡ,

Phật tuy luôn tại thế

Không gặp vì không duyên;


Biết rõ trần sa giới

Căn theo nhiễm chưa lâu,

Hai Không trí thù thắng

Diệu dụng độ ngu mông.


Thanh tịch sạch các nhơ

Thân tự, tha thọ dụng

Thường ở Sắc Cứu Cánh

Lợi ích người năm thừa.


Cứu vớt khổ chúng sinh

Thọ mạng dài vô lượng

Hai nghiêm không cùng tận

Công đức lớn khó lường.


Phật diễn pháp Nhất thừa

Tùy cơ hiểu nông sâu

Hoa sen không nhiễm dơ

Ngọc vốn sạch vết khuyết.


Ngợi ca một phần nhỏ

Nói rộng lý mầu nhiệm

Nguyện đem các công đức

Khắp thí lợi Trời, Người.



KỆ XƯNG TÁN PHÁP GIỚI.



Phật Tử Thanh Phi sửa lại lỗi chính tả.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32342)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6395)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11024)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30189)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30265)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7860)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 11960)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12129)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11450)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12480)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34280)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9668)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52059)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10579)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10331)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10534)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10311)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12903)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16008)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21601)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9491)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 6983)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10260)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12447)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12614)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16066)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16325)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13685)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16328)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11883)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13650)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14199)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9088)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11634)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11162)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16046)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14213)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16048)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12579)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11901)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11637)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15517)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11359)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13875)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11857)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12413)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14786)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11833)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 12969)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14302)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20447)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13047)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10822)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20523)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14181)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20075)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17393)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13791)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31686)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 14590)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant