Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tư Tưởng Kinh Địa Tạng

29 Tháng Tám 201711:20(Xem: 13941)
Tư Tưởng Kinh Địa Tạng
TƯ TƯỞNG KINH ĐỊA TẠNG
Cái Nhìn Minh Triết Của Một Danh Tăng (*)
bo-tat-dia-tang-2019

      
• Trần Đan Hà

           

  Nhân mùa Vu Lan Báo Hiếu, xin dành trọn vẹn tình yêu thương hướng về cha mẹ, bằng cả tấm lòng thành kính của người con; bằng nhất tâm đảnh lễ và ngợi ca những công trình “khai tâm” của chư Tôn Thiền đức dành cho hàng Phật tử. Nhờ vậy chúng con mới biết đến bổn phận của mình mà tu tập; mà vinh danh công đức của những tấm lòng hiếu hạnh. Từ xa xưa cổ đức đã dạy “Làm con hiếu hạnh vi tiên”. Vì thế đối với người Phật tử trước tiên là tu về “Hiếu đạo”. Cho nên chúng ta thường hay quan tâmtrân trọng mùa Vu Lan Báo Hiếu. Theo tình tự dân gian thì họ cũng luôn hướng lòng về với bậc sanh thành dưỡng dụccầu nguyện: “Mỗi năm mỗi thắp đèn trời. Cầu cho cha mẹ sống đời với con. Đối với người Phật tử thì quan niệm về hiếu hạnh là nổ lực tự thân tu học để sớm giác ngộgiải thoát. Và hồi hướng công đức tu học nầy đến cha mẹ đã quá vãng, để cầu nguyện cho họ sớm được vãng sanh. Như truyền thuyết dân gian thường cho rằng, theo sự tích Ngài Mục Kiền Liên sau khi đắc đạo, liền dùng Huệ nhãn để tìm mẹ dưới địa ngục a tỳ. Như một đoạn trong Kinh Vu Lan: “Một thuở nọ Thế Tôn an trụ. Xá Vệ thành Kỳ thụ viên trung. Mục Liên mới đặng lục thông. Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân. Công dưỡng dục thâm ân dốc trả. Nghĩa sinh thành đạo cả mong đền. Làm con hiếu hạnh vi tiên...  (Thiền Môn Nhựt Tụng, trang 265).

 Khi biết mẹ mình đang chịu đói khổ trong cõi ngục địa giới. Ngài đã tìm đủ mọi cách để cứu mẹ nhưng không lần nào thành công cả, vì mẹ mình nghiệp chướng nặng sâu. Nên ngài liền về bạch Phật xin chỉ dạy phương pháp cứu mẹ. Nhân đó Phật dạy rằng: “Dầu ông có thần lựclòng hiếu thảo rộng lớn đến đâu, cũng không thể một mình cứu mẹ ông được. Mà phải nhờ thần lực của mười phương Tăng. Nhân ngày tự tứ trong các đạo tràng thanh tịnh ông hảy sắm sửa phẩm vật để cúng dường. Và trước khi Tăng chúng thọ nhận, họ đều chú nguyện cho tín gia thí chủ. Nhờ vào thần lực chú nguyện nầy mà cha mẹ mình được thoát nạn”. Với tấm lòng Đại Hiếu của Ngài Mục Kiền Liên, theo lời chỉ dạy của Phật, đã cứu mẹ mình thoát vòng khổ nạn dưới chốn u đồ. Nên sau nầy nhân gian cứ  nghĩ rằng “Kinh Vu Lan là Kinh Báo Hiếu”.

 

  Thế nhưng gần đây, thêm một phát giác rất mới mẻ, đầy thuyết phục rằng, kinh Địa Tạng cũng là một bản kinh Hiếu Đạo. Trong đó có nhiều chi tiết của kinh đã làm sáng tỏ phương pháp tu tập, đem đến kết quả khả thi cho hàng Phật tử qua: “Tư Tưởng Kinh Địa Tạng” như một bức “thông điệp” đầy tính minh triết, lạc quan và mang tính khoa học. Một phát giác mới mẻ và lý thú về nhiều điều. Trong đó đã đi đến một kết luận thật bất ngờ là không chỉ kinh “Vu Lan là bản kinh Báo hiếu”; mà kinh Địa Tạng cũng là một bản kinh “Hiếu đạo” để cho tứ chúng tu tập và noi theo với nhiều bằng chứng được lý giải rất khoa học. Trong đó lý do chánh đáng nhất là ngài Địa Tạng đại sĩ đã căn cứ vào nguyên nhân sở thuyết bản kinh để khẳng định : “Đức Thế Tôn đã nói kinh nầy cho Thánh Mẫu Ma-gia ở cung trời Đao Lợi trước lúc Thế Tôn vào Niết-bàn... có phần giáo hạnh mở rộng đi vào đại bi và đại tuệ. Có thể hiểu Kinh Địa Tạng là một hiếu kinh mở rộng cho năm thừa giáo mà Thế Tôn muốn giới thiệu đến Thánh mẫu” (trang 12). Thêm nữa là Ngài đã dùng phương pháp hướng dẫn tứ chúng tu tập qua con đường hiếu đạo. Cuốn sách luận về Tư Tưởng Kinh Địa Tạng được gọi là “Lời Khai Thị” vì dựa theo nhiều yếu tố mang ý nghĩa thâm diệu của nguyên nhân. Như Đản sanh của đức Bổn Sư ra đời là để: “Khai thị Chúng sinh ngộ nhập Phật Tri Kiến”. Cuốn sách đã làm sáng tỏ mọi hiểu lầm cho tứ chúng. Còn mang thêm ý nghĩa vi diệu của lòng hiếu hạnh đã xóa tan đi màn mây mù che lấp những biên kiến, cố chấp thường tình. Cũng như phương thức giáo hóa chúng sinh từ thấp lên cao của Địa Tạng đại sĩ.

 

 Như “Lời Tựa”:- “Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn. Quần chúng thường quan niệm rằng: Kinh Kim Cương, Di Đà, để cầu siêu; kinh Phổ Môn để cầu an; kinh Địa Tạng dùng để đọc tụng cầu siêu cho những người sắp chết và đã chết. Với quần chúng bình dân các kinh dùng để cầu nguyện, cầu xin an ổn cho người sống và kẻ chết.

 Thật là đáng tiếc: Quần chúng đã vô tình đưa kinh điển Đại thừa đến chổ đánh mất hết sinh lực giải thoát, khoác vào kinh một màu áo tiêu cựcảm đạm.

 Đến thập niên 60 và 70, Thượng tọa Trí Quang dịch ra Việt văn và ghi phụ chú Kinh Địa Tạng; cư sĩ Mai Thọ Truyền cũng dịch ra Việt văn, ghi thêm lời bàn dưới mỗi phẩm kinh và gọi là mật nghĩa. Hai công trình đó đã mở ra một cái nhìn sáng sủa và một niềm tin trong sáng về kinh Địa Tạng.

    Chúng tôi hàng tỷ kheo hậu học, với hiểu biết giới hạn nhưng khát khao muốn giáo lý đầy Trí tuệTừ bi của Phật giáo bừng sáng giữa cuộc đờithời đại khoa học kỷ thuật, mạo muội xin trình bày một số thiển ý về kinh hầu đóng góp thêm một ít tư liệu tư duy cho các Phật tử Việt Nam. Chúng tôi không tránh khỏi những vướng mắc, mong chư vị tôn túc từ bi bổ khuyết, và mong quý Phật tử hoan hỷ góp ý. (trang 6). 

   Đây có thể gọi là bức thông điệp rất sinh động, tràn đầy nhựa sống gởi đến toàn thể Phật tử Việt Nam. Vì sự suy luận đã khai mở ra cương yếu Kinh Địa Tạng bằng trí tuệ siêu việt của một bậc danh tăng. Việc xây dựng nhằm mục đích cho hàng Phật tử tu học đúng theo nội dung của kinh, để giải thoát ra khỏi và vượt lên chiếc lưới trùng trùng của vô minh. Phá bỏ những nghi ngại mà lâu nay nhiều người hiểu lầm, khiến cho việc tu học về kinh một cách phiến diện, không thấy được những mặt tích cực khác. Vì Cổ đức đã nói: “Y kinh diễn nghĩa tam thế Phật oan” và “Ly kinh nhất tự như đồng Ma thuyết”.

 

  Mở đầu giới thiệu Kinh Địa Tạng: “Kinh không trình bày giáo lý một cách trực tiếp, cũng không trình bày giáo lý dưới hình thức vấn đáp giảng giải, mà gián tiếp nói lên giáo lý qua các cảnh đời khổ đọa và giải thoát, diễn tiến như một tiểu thuyết với các tình tiết được sắp đặt chặt chẻ. Tại đây, chúng ta không quá câu nệ một số điểm trình bày, mà chỉ cốt nắm vững trọng tâm giáo lý của kinh (trang 19).

  Giáo lý của kinh được trình bày dưới hai hình thức là “Xuất xứ và Nội dung”. Về xuất xứ thì chúng ta thấy: “Thời pháp nầy Thế Tôn nói cho Thánh Mẫu Ma Gia nghe, dù thính chúng vân tập gồm đủ các hàng phàm thánh, trước khi Thế Tôn vào Niết Bàn. Đây là thời pháp độ Thánh Mẫu, vừa giáo hóa chúng sinh như là thời kinh hiếu” (trang 20).

  Như thế, yếu tố căn bản bao trùm nội dung của kinh là bởi lòng “Hiếu Đạo” : “Con đường dẫn đến Phật tríBồ tát đạo phát triển lòng đại từđại bi. Cơ sở của tâm đại bi là tâm hiếu thảo” (trang 21).

  Chúng ta thấy rằng, nội dung của kinh không giáo huấn cho hàng Phật tử về cung cách đối xử với các bậc “sinh thành dưỡng dục”, cũng như cách thức làm tròn chữ hiếu của người con, như tập quán của dân gian. Mà xuyên qua “nguyên nhân” được hình thành nên bổn kinh mà xác định. (“Đây là thời pháp độ Thánh Mẫu, vừa giáo hóa chúng sinh như là thời kinh hiếu”)

  Tương phản với con đường chánh đạobuông lung dẫn đến đọa lạc: “Đường vào các thống khổ của địa ngụctà kiến, si mê, bất tín nhân quả, phỉ báng tam bảo... “Bà Duyệt Đế Lợi” là mẹ của thiếu nữ Bà-la-môn (tiền thân của Địa Tạng đại sĩ) là ý nghĩa tất cả đều có mặt chân tâm, chỉ vì không nghe tiếng nói của chân tâm, đi theo tà kiến bà mới bị khổ đọa. (trang 22).

 

  Đây là lý do thứ hai để xác tín kinh Địa Tạng là kinh báo hiếu. Khi Địa Tạng đại sĩ hướng dẫn cho chúng sinh thoát khỏi con đường lầm lạc, có chứa đầy ác hạnhkhổ hạnh được quay về với chân tâmthể hiện tấm lòng hiếu thảo. (trong chúng sinhcha mẹ của mình). Một ý niệm về lòng hiếu thảo thật bao la, thênh thang rộng mở như con đường hướng đến từ bitrí tuệ của đức Như Lai.

  Vì khi tâm được giác tỉnh, hướng về chân tánh thì tất cả các vọng niệm, ác niệm đều được chuyển thành chánh niệm, thiện niệm, thoát ly hẳn ác đạo. Khi tâm đã hướng thiện thì các ác niệm, vọng niệm cũ dứt, do đó kinh nói: “Tất cả tội nhân cũng được ra khỏi địa ngụcsinh Thiên giới một lượt với Bà Duyệt Đế Lợi”.

  Thế nhưng có một điều đáng chú ý và cần suy niệm để thấy rõ nội dung chính của kinh, đã xác tín một cách khách quan và trung thực, tránh những hiểu lầm về bổn phận của chúng ta đối với hai chữ “hiếu đạo”, cũng như thoát khỏi vòng mê tín, dị đoan của tà đạo:

  “Tại đây, nếu hiểu rằng chính Địa Tạng Đại sĩ đã cứu mẹ và các tội nhân địa ngục thì trái với luật nhân quả. Vả lại, ba đời chư Phật và Bồ-tát đều hồi hướng công đức cho hết thảy chúng sinh, nếu tha lực đã cứu độ, thì hóa ra không có chúng sinh sa vào địa ngục; hoặc nếu sa vào thì cũng lại được thoát ra mà không cần tu niệm. Kinh Địa Tạng chẳng đã dạy:“Chí thân như tình phụ tử đi nữa, cũng đường ai nấy đi”. (trang 23).

  Đây là điểm minh triết của Thầy khi nhận xét về kinh Địa Tạng, vì tu theo giáo lý của Phật đàcần phải tự mình nổ lực phấn đấu, tự mình “thắp đuốc lên mà đi”. Hay như lời của nhân gian: “Ai tu nấy chứng”. Chứ không ai có thể giúp cho chúng ta giải thoát khỏi những khổ đau được. Vì khổ đau chính là do “thân, khẩu và ý nghiệp” của chúng ta tạo tác, thì chỉ có chúng ta mới chuyển hóa chúng qua con đường tu tập.

 

  Như thế kinh Địa Tạng xem như hiếu kinh, với mục đích giới thiệu ý nghĩa cho người sống hiểu rõ để xây dựng chánh kiếnchánh tín, hầu có một tập quán nghiệp và một cận tử nghiệp tốt mở đường đi vào Thiên giới sau khi chết. Trì tụng là bước đầu sửa soạn cho mình phát khởi thiện tâm để hành các thiện hạnh. Công đức ấy chỉ là trợ duyên, còn nhân tố chuyển nghiệp chính vẫn là ở thiện tâm của mỗi người tự cứu. Như trong các bài Sám nguyện: “Chúng con khổ nguyện xin cứu khổ. Chúng con khổ nguyện xin tự độ”.

  Cảnh giới địa ngục được kinh mở ra như một tấm gương soi cho người thấy rõ tâm mình mà cảnh giác xa rời các ác niệmác hạnh. Nó không hoàn toàn là một cảnh giới, mà là các tâm tà kiến, độc hại có thể thiêu cháy các hiếu tâm, từ tâmthiện tâm. Ý nghĩa Địa Tạng Đại sĩ cứu thoát chúng sanh địa ngục là thế. (trang 25).

  Do vậy mà tấm lòng hiếu thảo đối với cha mẹ, lòng từ tâm đối với mọi ngườicông dụng xóa sạch các ác tâm, ác hạnhác nghiệp cũng như khai nguồn đại bi tâm cho những người hành Bồ tát hạnh.

   “Sứ mệnh của Địa Tạng Đại sĩ là đem lại chánh kiếntừ bi cho chúng sanh, chỉ đường đi ra khỏi biển khổ” (trang 27).

 

  Qua đó chúng ta thấy rằng, tu tập theo kinh Địa Tạng vẫn phải theo những thứ tự của nội dung kinh như: Hiếu đạo. Bố thí. Trì giới. Thiền định. Trí tuệ... Nhưng được giải thích rõ ràng cặn kẻ những chi tiết rất chi ly. Ví dụ như “Bố thí” chẳng hạn, lâu nay nhiều người hiểu rằng, bố thí là đem tài vật cúng dường tam bảo, hay giúp đỡ những người nghèo khổ, bệnh tật. Ở đây giải thích nghĩa bố thí rộng rãi hơn, siêu việt hơn như biết kính trên nhường dưới, hòa thuận với anh chị em trong một nhà, sống hài hòa với mọi người, biết ơn bậc sinh thành dưỡng dục, biết ơn những người đã giúp mình, hay đem đến bình an cho mọi người đều là thuộc hạnh bố thí. Vì hạnh nầy là yếu tố quyết định để xây dựng một tấm lòng thương yêuhiểu biết (từ bitrí tuệ).

  Mở ra con đường chánh kiến để xây dựng đời sống hướng lên giải thoátgiác ngộ. Là phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng cho chúng sanh trong hiện tiền.

  “Chánh kiến và từ bi mà có mặt ở đời, có mặt ở mỗi tâm thức chúng sanh thì lo gì tội khổ trong sinh tử không tiêu...” (trang 36).

  Chánh kiến cũng có nhiều cấp độ khác nhau, do đó công năng của chánh kiến cũng tùy theo nghiệp lực của mỗi giai cấp mà hóa giải như: “Chánh kiến của phàm phu thì có công năng loại bỏ ác hạnh, làm các thiện hạnh; chánh kiến của hữu học thì siêu vượt thiện ác, nuôi dưỡng trí tuệ vô ngã; chánh kiến vô học thì đoạn diệt hết các nhân sinh tử. Từ biđộ tha, đem chánh kiến đến cho chúng sinh, thì khổ đau sẽ lui dần, xa dần, chúng sanh” (trg 37).

  Sau khi xây dựng được chánh kiến, thì chúng ta an trú giới (mười thiện nghiệp) để chế ngự ba nghiệp (thân, khẩu, ý): “Dù tu tập pháp môn nào của Phật giáo, nổ lực giải thoát chỉ tập trung vào giải thoát ba nghiệp: thân, khẩu và ý nghiệp. Nói rõ là tu mười thiện nghiệp cho đến cấp độ thanh tịnh, loại hẳn sân, si đoạn trừ được nhân tố chính của chúng là vô minh...” (trang 40).

  Đạo giải thoát là chỉ bày cho chúng ta ra khỏi những nghiệp lực đã trói buộc chúng ta tạo nên khổ đau. Mà nguyên nhân chính để tác nghiệp trói buộc ấy là : Thân, Khẩu và Ý.

  Và kinh xác định: “Phật tử là người sống hiền thiện và có chánh kiến. Con đường đạo đức nầy để hộ trì nhân loại, trực tiếp giáo hóa những kẻ đang sống, mà không phải để tụng đọc cho người chết, không phải để lo tang tế. (trang 41).

 

   Sự cứu độ người chết ở đây mang một ý nghĩa sâu sắc, là căn cứ vào công đức tu tập của người ấy lúc còn sống. Họ phải tu tập tuần tự theo nội dung của kinh chỉ dẫn, từ sơ đẳng để tiến bước và phải tinh tấn mỗi ngày thêm hơn cho đến chánh quả. Như vậy “sự cứu độ” ở đây là công đức giáo dưỡng và nổ lực tu tập của những người đang sống. Như câu chuyện tự độ và độ tha như sau: “Lục Tổ Huệ Năng có lần bạch với Thầy là Ngủ Tổ Hoằng Nhẫn rằng: “Lúc mình mê thì nhờ thầy độ, khi tỉnh rồi thì mình độ lấy mình” như vậy nghĩa của chữ “độ” là tự mình tìm đường ra khỏi nơi tăm tối, đến chổ sáng suốt bằng con đường giáo dục của hàng Thiện Trí thức, và nổ lực tu học của Phật tử

  Như ý nghĩa tụng kinh niệm Phật cho người mới tu: “Lễ bái, ca tụng, ngưỡng mộ Địa Tạngý nghĩa lễ bái ca tụng ngưỡng mộ chánh kiếntừ bi. Ca tụng, ngưỡng mộ và lễ bái chánh kiếntừ bi mới chỉ là giai đoạn đầu của người hành đạo hướng về học hỏi, tư duy về chánh  đạo. Chỉ với công đức nầy đủ để ngưng lại nhiều ác niệm và ác hạnh”...

  Cũng như giải thích: “Công đức của bố thí, cúng dườngcông đức làm phát khởi từ tâm, bi tâm và các thiện tâm. Công đức trì tụng kinhcông đức làm phát khởi trí tuệ”. (trang 47).

  Qua bản tóm lược những điều cần thiết trong việc tu tập cho tứ chúng rất đơn giảndễ hiểu. Đây là phương pháp hướng dẫn tu tập của Địa Tạng đại sĩ với chiều hướng từ thấp lên cao. Và theo quy trình của giáo lý Phật giáo. Tuần tự nầy sẽ giúp cho Phật tử dễ dàng chọn lựa Pháp môn tu tập (gọi là trạch pháp). Vì theo lịch sử Phật giáo, thì Giáo lý gồm có tám vạn bốn ngàn pháp môn. Nhưng chung quy cũng chỉ nằm trong ba điểm cốt yếu của giáo lý Thế Tôn chỉ dạy:

 

   1)- “Không làm việc ác” (Chư ác mạc tác).

  Người Phật tử sau khi đã quy y Tam Bảo muốn quyết tâm tu hành cho thành chánh quả, thì trước tiên phải quay về nương tựa tự thân để dốc lòng từ bỏ ác kiến, ác niệmác hạnh. Như việc giữ gìn năm giới cho người Phật tử tại gia, và rời xa các tin tưởng thần quyền, mê tín, dị đoan; rời xa các thái độ cầu xin, vọng ngoại (thuộc về bổn nguyện). Rời xa các tưởng nghĩ tổn hại cho mình và cho người, rời xa các ham muốn tội lỗi, rời xa sân hận. Nói chung là gìn giữ trọn vẹn năm giới (của thân, khẩu và ý). Đó là bước nổ lực thực hiện lời dạy: “Chư ác mạc tác” (không làm việc ác).

 

 2)- Làm mọi việc lành (Chúng thiện phụng hành)

  Việc lành thiết thực hơn hết là bổn phận làm con phải hiếu hạnh với cha mẹ, và thuận thảo với anh chị em trong gia đình trước tiên. Được như vậy thì bản thân mới an lạc, gia đình mới hạnh phúc. Hầu góp công xây dựng một xã hội phú cườngthịnh vượng.

  Tròn bổn phận hiếu thảo với bậc sinh thành dưỡng dục rồi, thi người Phật tử cần đến chùa để học hỏi giáo lý hầu mở mang kiến thức về Phật pháp. Sau khi tu tập một thời gian phải nổ lực tu tập theo bước thứ ba.

 

  3)- Làm thanh tịnh tâm ý (Tự tịnh kỳ ý).

  Là công việc phát triển lòng từ bi, thực tập thiền định, thiền quán vô ngã để đoạn trừ các tập tục xấu ác như tham ái, chấp thủvô minh, là bước tu tập sau cùng.

  Song hành theo những bước tu giải thoát trên, người Phật tử cần phải phát tâm giúp cho tha nhân thoát khỏi khổ đau bằng vật chất; giúp tha nhân thoát khỏi khổ đau của tình cảm và tâm lý, và giúp tha nhân hiểu rõ về đạo giải thoátgiác ngộ của Phật giáo.

  Thực hiện được như vậy thì hành giả đã có vốn liếng để đầu tư vào lãnh vực tu học một cách tích cực.  Làm tròn bổn phận là không phụ lòng giáo hóa của đức Thế Tôn, và chư Tôn Thiền đức, cũng như nắm bắt cơ hội tốt để chúng ta góp sức vào trong công cuộc hộ trì tam bảo một cách đúng nghĩa và hửu hiệu vậy.

 

  Lời kết: Theo quan niệm Phật giáo cổ xưa, thì công việc báo hiếu đối với cha mẹ của những người con, chỉ giới hạn trong vòng “Mùa Vu Lan Báo Hiếu” mà trung tâm điểm là “Ngày Rằm Tháng Bảy”. Thế thì còn lại thời gian hơn ba phần tư của năm chúng ta không thương nhớ về cha mẹ của mình hay sao?

  Cho nên bây giờ có thêm một phát giác mới, là chúng ta tu tập theo sự giáo hóa của Địa Tạng đại sĩ, thì việc làm tròn hiếu đạo với song thân, không bị giới hạn về thời giankhông gian. Vì nói như thiền sư Nhất Hạnh thì: “Ý niệm về mẹ thường không thể tách rời ý niệm về tình thương. Mà tình thương là một chất liệu ngọt ngào, êm dịu và cố nhiên là ngon lành...” (trong Bông Hồng Cài Áo).tình thương thì luôn có mặt trong chúng ta quanh năm suốt tháng. Cũng như một nhà văn nào đó đã viết: “Con tim không bao giờ muốn sống nơi chốn quạnh hiu, băng giá; mà nó luôn mong muốn trở về nơi chốn ấm áp bởi tình yêu thương!”

  Còn không ngăn cách về không  gian, ví dụ: “Ý niệm về quê nhà, không bị ngăn cách bởi không gian vật lý, vì theo Duy thức học thì tốc độ tâm hành nhanh hơn tốc độ ánh sáng, nên khi ta muốn về thăm quê nhà, thì chỉ việc nhắm mắt và nói lên ước muốn của mình thì tức khắc quê nhà sẽ hiện lên trong tâm chúng ta”.

  Đây cũng là đề tài suy gẩm cho người Phật tử vậy.

 

  (*) Tư Tưởng Kinh Địa Tạng sách do HT. Thích Chơn Thiện biên soạn. Hòa Thượngđệ tử của cố Đại lão HT. Thích Tịnh Khiết, Đệ Nhất Tăng Thống Giáo Hội PGVN Thống Nhất. Hòa Thượng tốt nghiệp cao học Tâm lý Giáo dục tại Đại học Ohio, Hoa Kỳ và Tiến sĩ Phật học tại Đại học Delhi, Ấn Độ 1996. Sách do Nhà Xuất Bản Phương Đông ấn hành năm 2010.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14167)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10914)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10592)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11263)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12061)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13218)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13703)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33723)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11392)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12989)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13130)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11690)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17946)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11492)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11919)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11580)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 19040)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12628)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11413)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13217)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15842)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11897)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11773)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12870)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12723)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 14013)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13032)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12996)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13362)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12833)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12757)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11802)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11783)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12400)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12452)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19897)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 12047)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12070)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16947)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12732)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15150)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16197)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12947)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12311)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11973)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11975)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13218)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16566)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13288)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12570)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11906)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19924)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11229)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11322)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10458)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11154)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 11017)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10075)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11798)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11689)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant