Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Uy Nghi Giới Hạnh Trong Phật Pháp

30 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 22950)
Uy Nghi Giới Hạnh Trong Phật Pháp

UY NGHI GIỚI HẠNH TRONG PHẬT PHÁP

Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII khai thị

blankTâm nguyện lớn nhất của tôi là tất cả mọi người sống trong hòa hợp tương thân tương ái”.
Kính lễ Kim Cương Thượng Sư Tôn!
Đấng Pháp Vương Drukpa tôn quý,
Ngài là chủ hết thảy Đạo sư,
Mang phúc lợi nhiêu ích hữu tình.
Dưới gót sen cao quý quang vinh,
Dốc lòng thành con nguyện quy kính!

Đức Long Thọ Bồ Tát dạy rằng: “Giới luật, giống như căn bản của thế và xuất thế, là nền tảng của hết thảy trí tuệ”.

Do các hành giả tha thiết thỉnh cầu nên Pháp Vương đã tùy căn duyên viết ra các chương luật uy nghi giới hạnh khai, giá, trì, phạm dễ hành trì dưới đây cho những Phật tử phúc duyên hy hữu theo giáo pháp của Ngài.

Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách, bao gồm bảy loại giới nguyện biệt giải thoát, dẫn dắt chúng ta trên nhiều đạo lộ khác nhau để đạt đến giải thoát. Giới nguyện tinh túy nhất là:

1

Phải từ bỏ việc làm hại người khác, ý muốn làm tổn hại người khác bởi vì chúng dẫn tới những ác hạnh, đây là pháp thực hành của hàng Thanh Văn, Duyên Giác. Pháp tu tập này là nền tảng của tất cả các thừa.

2

Luôn học cách giúp đỡ mọi người và không ngừng tu tập, trưởng dưỡng Bồ Đề Tâm tôn quý vì pháp tu trì chính này là con đường chung của Đại thừa. Đây là cốt tủy để thực hành thành công bất kỳ một Pháp nào và tiêu trừ si ám trên con đường đạo.

Điều tối quan trọng là thiện nam tín nữ, từ trẻ đến già, những người đã phát nguyện thực hành Phật Pháp và được tạo nguồn cảm hứng từ chính niệm, phải tinh tiến thực hành hai pháp trên và không được sao nhãng bởi những hoạt động trần tục ích kỷvô nghĩa.

Điều trọng yếu để tu tập tối thượng đạo đầy ý nghĩa nhiệm màu là phải có động cơ thanh tịnh và hành động chân chính.

3

Dựa trên nền tảng sự hiểu biết chân thực của mình, bạn phải bày tỏ sự thân thiện, tình yêu thương và sự tôn kính lên Bậc Thầy - người dìu dắt hướng đạo mang lại cho cuộc đời bạn trở nên đầy ý vị giải thoát, và đối với Phật tử, Tăng đoàn là những thiện tri thức đã ủng hộ, nâng đỡ bạn tu tập thực hành Phật Pháp.

Thượng sư tôn quý, người khai thị tự tính tâm cho bạn thông qua con đường đạo giải thoát thông thường và siêu việt trong truyền thống Kim Cương Thừa, Ngài chính là Dharmakaya (Pháp thân) hiện thân trong hình tướng loài người để hướng đạo dẫn dắt chúng ta tới bến bờ giải thoát. Ngài đã dìu dắt hướng đạo chúng ta theo chính đạo, Ngài từ bi hơn tất cả chư Phật và Bồ Tát. Do đó, điều tối quan trọng cần thấu hiểu rằng, bạn phải luôn nhu hòa nhẫn nhục theo ‘ba cách’ để Ngài hoan hỷ, đó là thực hành tâm linh, thân phụng sựcúng dường phẩm vật với chí tâm bất thoái. Đây là tinh yếu của tu tập Kim Cương Thừa.

4

Những hành giả thiện nam, tín nữ thường trú ở Trung Tâm nên thường xuyên tham gia tu tập thực hành vào buổi sáng và buổi tối, tụng kinh và các thiện hạnh hàng ngày; thiện hạnh tu tập Nyungnay (Bát Quan Trai Giới) được thực hiện vào những ngày rằm và mùng một, mùng tám hàng tháng.

5

Đặc biệt là lễ cúng Ganachakra nên được cử hành vào buổi sáng mùng 10 với pháp thực hành GuruYoga và vào tối ngày 25 với pháp thực hành Dakini.

6

Nói chung, bạn nên chí thành tha thiết, xả thân hành trì với bất kỳ một phương pháp tu chuyển hóa tâm thức nào, cụ thể là bốn pháp tu mở đầu cho tới khi chứng đạt Giác Ngộ. Nếu nghĩ rằng, chỉ thực hành một vài lần bốn pháp tu mở đầu là đủ thì thực sự là ngộ nhậnsai lầm.

7

Những Pháp hữu tri thức nên yêu thương cảm thông, tận tâm chia xẻ và tương thân tương ái. Những tập khí xấu phải được từ bỏ như: Cố chấp vào những tà kiến, buông lung nói dối, nói lưỡi đôi chiều, nói ác khẩu, nói thêu dệt.

8

Mọi gốc rễ của lầm lỗi là do khẩu nghiệp tạo nên. Do vậy, điều quan trọng phải chính niệm, kiểm soát được khẩu nghiệp trước công chúng.

9

Sự quá thân cận gần gũi với người khác có thể làm kích động ngọn lửa ái kếthận thù. Bởi vậy, duy trì khoảng cách đúng mực ngay từ ban đầu là rất quan trọng.

10

Cho dù bạn tham gia vào những hoạt động tâm linh hay thế tục thì trước tiên bạn phải soi xét kỹ lưỡng, tường tận động cơ của mình. Ngay cả khi động cơ đó không phải quá tồi nhưng bạn phải xét xem hành động đó có mang lại lợi ích cho người khác hay không. Bạn nên giác tỉnh rằng, việc tham gia vào bất cứ hoạt động nào mà không có sự quán chiếu, suy xét là dấu hiệu của thiếu hiểu biếtsi mê.

11

Đừng nên cô phụ tự tính của chính mình với sự ngã mạn dựa trên một chút kiến thức thiển cận. Thay vào đó, bạn nên tri ân phụng sự Đạo sư- người đã soi rọi con đường chính đạophụng sự cả những Pháp hữu của mình. Sau khi đã phụng sự được một chút cho Phật Pháp, Tôn Sư, Bằng hữu, Giáo thọ…bạn không nên khoe khoang về những gì bạn đã làm mà nên tùy hỷ khiêm cung.

12

Những người vốn thiếu trí tuệtrình độ giáo dục hạn chế thì không nên tự ti và mất niềm tin, mà hãy nhiệt thành tham gia vào thiền định hay nhiều những thiện hạnh khác để trưởng dưỡng việc thực hành tâm linh của mình, tuy nhiên phải nhớ rằng, luôn tuân thủ mà không được vi phạm giáo huấn của Căn bản Thượng sư. Nếu những hoạt động như vậy không làm người khác an vui thì thật là đáng tiếc.

13

Khi thấy những Pháp hữu khác có trình độ cao hơn, bạn nên tùy hỷ chứ không được ghen tị. Thậm chí ngay cả khi bạn không có ý muốn ca ngợi người bạn đó một cách cởi mở, thì bạn cũng nên giữ yên lặng và không nên phê bình chỉ trích, điều này là rất quan trọng.

14

Trong mọi hoàn cảnh, bạn nên luôn hồi quang tự kỷ, khắc kỷ khoan tha, trau dồi giới hạnh, hoàn thiện thân tâm. Chính cái ý nghĩ chỉ trích người khác là ngọn lửa để thiêu trụi công đức của chính bạn. Vì vậy hãy từ bỏ nó.

15

Khen mình, chê người là nhân của động cơ chấp thủ bè đẳng và thù hận, nó là trở ngại đối với mục đích chí hướng của Bậc giác ngộhoàn toàn trái ngược với việc tu tập chính Pháp. Vì vậy, hãy từ bỏ những cách nói như vậy.

16

Nếu một người nào đó buông lung phóng dật trong lời nói thì tốt hơn hết bạn không nên phê bình chỉ trích gì, nếu không thể thực hành tâm linh thì bạn hãy trở lại nơi ở và ngủ một giấc thật sâu.

17

Hãy luôn hồi quang phản chiếu chính mình và tham gia vào các hoạt động Phật Pháp. Tư tưởng bạn không nên bị chi phối bởi “Tám Món Bận Tâm Thế Tục” và buông lung trong sự lừa dối, xảo trá, ngộ nhận… Đây là điều tối quan trọng.

18

Ngoại trừ những người mà nội chứng của họ về ý niệm Đại từ, Đại biBồ Đề Tâm đã được tán thán bởi một đạo sư phẩm hạnh thì Pháp nhũ của các Ngài thực sự đem lại giải thoát an lạc cho chúng sinh, còn những Giảng Sư chỉ giảng pháp dựa trên sự hiểu biết hạn hẹp theo nghĩa đen thì không những hoàn toàn tổn hại cho chính họ mà còn làm cho những người khác si mê lầm lạc. Một việc làm như thế sẽ gây tổn hại nhiều hơn lợi lạc. Bởi vậy không cần thiết phải vội vàng để có được địa vị hay danh hiệu Khenpo hay Lama.

19

Tóm lại, trong bất cứ sự tu tập Phật Pháp nào nên hướng tới mục đích là trau dồi trưởng dưỡng tâm mình. Việc thực hành Pháp với mục đích để có được danh tiếng và sự tôn trọng không phải là việc thực hành chính Phápchỉ dẫn đến quả báo đọa lạc tam đồ. Vì vậy, việc hiểu được chính tàthực hành chính đạo một cách đúng đắn là đạo của Bậc Hiền Trí.

20

Những Phật tử thiện nam tín nữ đang phụng sựTrung Tâm nên chắp táp với động cơ thanh tịnh, với tín tâm chí thành dâng hiến, sự chứng minh của Tam Muội Gia Giới cùng với tâm hỷ lạc.

21

Trong trường hợp thân tâm đau ốm bệnh tật, thì nên đi chữa bệnh hoặc về nhà tĩnh dưỡng nghỉ ngơi.

22

Gây ra sự bất anhiểu lầm giữa những Pháp hữu, Phật tửTăng Đoàn, từ trẻ đến già thông qua những lời phù phiếm buông lung thêu dệt, đơn giản chỉ bởi những tâm nguyện của mình chưa được viên mãn, sẽ tích lũy vô số ác nghiệp. Do đó, phải tinh tiến nỗ lực từ bỏ những ác hạnh như vậy.

23

Thịt, rượu, thuốc lá, thuốc phiện…không những trái với mục đích giải thoát của Phật Pháp mà còn như một lưỡi kiếm sắc cắt vụn cơ thể của bạn. Bởi vậy, những ai biết trân trọng sự quý giá của thân người hãy nên tự kiềm thúc thân tâmhạn chế sử dụng chúng.

24

Ngay cả khi bạn chưa thể hoàn toàn bỏ được chúng thì hãy nỗ lực cố gắng không sử dụng chúng trước những hình ảnh, biểu tượng của Phật, Pháp, Tăng, trong những chốn thực hành tâm linh, thiền thất v.v…

25

Tóm lại, những người khoác tăng phục sau khi đã nghe và suy ngẫm về giới luật thì nên trì giữ, cố gắng nỗ lực từ bỏ những hành động phi Pháp; không được tự cao tự đại và phải luôn tàm quý khiêm cung, không nên tranh giành địa vịdanh tiếng.

26

Những hành giả đạo Phật nên từ bỏ mười bất thiện nghiệp và hãy luôn cố gắng kiểm soát ‘tam nghiệp’ (thân, khẩu, ý) trong mọi thời khắc để cuộc sống vô thường ngắn ngủi này đầy ý nghĩa.

Mặc dù, sự hiểu biết tâm linh còn chưa tỏ tường rốt ráo, tuy nhiên, tôi là người đã xa lìa tất cả bất tịnh nhiễm ô của ‘Tám Món Bận Tâm Thế Tục’, xin viết phẩm uy nghi giới hạnh này vì lợi ích của những hành giả có thiện nguyện cao quý thực hành Phật Pháp.

Vua Pháp Dawoe Shonnu (Đức Gampopa) đã dạy:

“Mặc dù nhiều người có hình tướng là những hành giả Pháp với tư tưởng thanh tịnh thực hành Pháp nhưng cũng có những hành giả còn bị chi phối bởi ác hạnh của ‘Tám Món Bận Tâm Thế Tục’, đó là nhân của địa ngục”.

Cầu nguyện cho những thiện duyên hành giả đã thể nhập vào cửa giải thoát, sẽ được nâng đỡ bởi những tư tưởng thiện hạnh cao quý, xua tan đi những tà kiến phi Pháp!

Cầu nguyện cho họ thấy được chân giải thoát Pháp!

Để viên mãn lời thỉnh cầu tha thiết của Pháp hữu Drukpa Lama Nawang, Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII đã rủ lòng từ bi viết phẩm uy nghi giới hạnh này xuất phát từ dòng tâm thức của Ngài vào ngày 15 tháng 9 năm 2000.

Nguồn: IDP Website: drukpa.com

Source: thuvienhoasen


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19715)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23972)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41222)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19705)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24005)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21749)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23315)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27510)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26579)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29324)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33208)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20209)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25789)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20922)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31332)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38587)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21450)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44273)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29836)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42226)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22146)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45784)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32126)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23969)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24399)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29285)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33931)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27692)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32153)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21072)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28859)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21595)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28085)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22084)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21446)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19510)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19478)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19843)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19262)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29203)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20628)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28306)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23653)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33201)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31851)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21384)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39636)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21566)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19386)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26413)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24838)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21760)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22399)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29144)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22563)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20474)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23533)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21243)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35336)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24550)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant