Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương IV: Những Trường Phái Đại Thừa

01 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9857)
Chương IV: Những Trường Phái Đại Thừa

SẮC TƯỚNGTHẬT TƯỚNG

Vấn Đề Nhị Đế Trong Tứ Đại Thuyết Phái của Phật Giáo
Prof. Guy Newland, Ph.D.
Tâm Hà Lê Công Đa chuyển ngữ

CHƯƠNG IV
NHỮNG TRƯỜNG PHÁI ĐẠI THỪA
Ngài A Đề Sa trong một tác phẩm quan trọng, “Bồ Đề Đạo Đăng”, đã phân loại người đời ra ba hạng có căn cơ khác nhau. Hạng hạ sĩ chỉ biết suy nghĩ đến những phúc lợi tạm thời, những an vui, dục lạc trong cuộc sống luân hồi sinh tử. Họ bám chặt với đời sống thế gian và không muốn từ bỏ nó. Đối với hạng người này,ï phần đông chỉ biết đi tìm kiếm những dục lạc trong cuộc sống thế tục hoặc nếu có theo tôn giáo thì cũng chỉ hời hợt bên ngoài; thản hoặc có một số khác gồm những người biết quan tâm đến chuyện tu hành thì cũng chỉ ở mức độ thấp nhất tức là chỉ tu phước, tu chỉ để mong cầu được tái sanh vào một kiếp sống tốt đẹp hơn trong tương lai.

Hạng hạ sĩ vì thế chưa có khả năng bước chân vào lộ trình giải thoát. Ngược lại, hạng trung sĩ chỉ tìm kiếm giải thoát cho riêng cá nhân mình ra khỏi vòng luân hồi sinh tử, lòng chăm chăm hướng đến niết bàn. Tuy nhiên họ đang đi trên con đường Tiểu thừa bởi vì chỉ quan tâm đến phúc lợi của riêng mình mà không chia sẻ gánh nặng cứu vớt chúng sanh. Trong khi đó hạng thượng sĩ với tâm nguyện vị tha rộng lớn, họ chỉ luôn nghĩ đến việc mang lại hạnh phúc cho muôn loài. 

Khi họ nhận ra khả năng có thể đạt đến giác ngộ, và biết được rằng những năng lực của một vị Phật có thể giúp đỡ tha nhân một cách hữu hiệu hơn, trong ý nguyện độ sanh cao cả, họ quyết định lựa chọn con đường tinh tấn tu tập cho đến bao giờ có thể đạt thành Phật quả. Lòng quyết tâm này là một hạnh nguyện Bồ tát và những ai mang những hạnh nguyện này vào đời, đang bước đi trên con đường của Đại thừa.

Như vậy sự khác nhau giữa Tiểu thừa / Đại thừa là sự khác nhau giữa hai lộ trình tu chứng. Đường tu của Tiểu thừa được thúc đẩy bởi ý nguyện vượt thoát vòng luân hồi sinh tửđạt đến đạo quả an tịnh giải thoát. Con đường của Đại thừa được thúc đẩy bởi tâm từ bi rộng lớn thương xót toàn thể chúng sanh nhằm đạt đến quả vị viên mãn, cực lạc, nhất thiết trí của một vị Phật. Tuy nhiên một điểm khác cũng cần được lưu ý là ngay từ phần đầu của cuốn sách này ta cũng đã từng đề cập đến sự khác nhau giữa hai thuyết phái Tiểu thừaĐại thừa. Thế nên chúng ta không nên lẫn lộn giữa hai sự khác biệt này. Một cách ngắn gọn, lộ trình tu chứng của Tiểu thừaĐại thừa được phân biệt trên căn bản động cơ và ý nguyện tu tập; trong khi đó hai thuyết phái Tiểu thừaĐại thừa không phải khác nhau do động cơ thúc đẩy mà là trên quan điểm về vô ngã, hay không tánh.

 Không giống như những thuyết phái Tiểu thừa chỉ giảng dạy về vô ngã của con người, thuyết phái Đại thừa giảng dạy rằng bản tánh rốt ráo của thực tại, thể vi tế và quan trọng nhất của vô ngãvô ngã, hay tánh Không, và đó là bản tánh rốt ráo của mọi hiện tượng giới. Họ khẳng định rằng Bồ tát do hạnh nguyện vị tha cao cả thúc đẩy, đã thiền quán sâu xa trên tánh Không của toàn thể pháp giới, và như thế đã chuẩn bị để bước vào tình trạng nhất thiết trí của Phật quả.

Một vài thuyết phái Đại thừa cho rằng những hành giả của phái Tiểu thừa đã không hề nhận chân được tánh Không của pháp giới và do đó không thể nào vượt qua khỏi những chướng ngại nhằm đạt đến nhất thiết trí. Tuy nhiên, thuyết phái cao nhất, Quy Mậu Biện Chứng phái của Trung Quán Tông, nhìn nhận rằng các hành giả của Tiểu thừa thực chứng được tánh Không, tuy nhiên lộ trình tu chứng này không thể đưa họ đến tình trạng nhất thiết trí bởi vì trí tuệ của họ không được trang bị bởi tấm lòng vị tha cao cả cũng như đã không được thúc đẩy bởi những hạnh nguyện ba la mật như bố thí, trì giới, nhẫn nhục, v.v...

NHỊ ĐẾ NHƯ LÀ MỘT NHẤT THỂ

Những thuyết phái Đại thừa đưa ra kết luận rằng cái tánh Không vi tế và sâu sắc thực chứng được trên con đường Bồ tát đạo là một Chân đế. Chân đế này là một hiện tượng giới khiển trừ, và hoàn toàn vô ngã (tức là không xuất hiện như một loại hữu thể nào đó). Tuy nhiên những trường phái Đại thừa đã bất đồng quan điểm về loại hữu thểtánh Không phủ định.

Cụ thể như trường phái Duy Thức cho rằng tánh Không là không có sự khác nhau giữa đối thể và chủ thể nhận thức (tâm) đang nắm bắt nó, của một thực thể; trong khi đó Quy Mậu Biện Chứng phái của Trung Quán Tông quan niệm rằng tánh Không là không có hiện hữu tự thân. Tuy nhiên cho dù định nghĩa tánh Không như thế nào đi nữa, các thuyết phái Đại thừa đều đồng ý rằng cái tánh Không rất vi tế này trước tiên là một Chân đế, và là một phẩm tánh hiện hữu trong toàn thể mọi pháp giới. Điều này có nghĩa là, bất cứ cái gì hiện hữu -kể cả tánh Không- đều trống rỗng về bất cứ loại hữu thể nào mà tánh Không phủ định.

Những tục đế bao gồm mọi pháp giới ngoại trừ tánh Không, như cái bàn, cái ghế, v.v... Tất cả những hiện tượng giới này đều rỗng không. Chúng tự nó không phải là những tánh Không, tuy nhiên chúng rỗng không bởi vì chúng thiếu một cách thế hiện hữu nào đó. Khi Tục đế mang phẩm tính rỗng không cũng như khi tánh Không là một Chân đế, ta đi đến một kết luận rằng Chân đếTục đế là những hiện tượng giới khác nhau, nhưng hổ tương khiển trừ, và bao dung lẫn nhau như là một thực thể đơn thuần bất khả phân.

Kinh Giải Thâm Mật (Unravelling the Thought) đã so sánh mối liên hệ giữa Nhị đế với mối liên hệ giữa vỏ sò trắng và tánh trắng của nó, tiêu và tánh cay của nó, bông gòn và tánh xốp của nó và những cặp tương tự. Trong mối liên hệ giữa vỏ sò trắng và tánh trắng của nó, tánh trắng không phải là vỏ sò, cũng như vỏ sò không phải là tánh trắng; thế nhưng cái vỏ sò trắng là luôn luôn trắng (1). Tương tự như thế, Hoàng Mạo phái biện giải rằng không hề có chuyện nghịch lý khi Nhị Đế có thể hổ tương giao tiếp toàn diện ở trong cùng một cá thể đơn thuần. Cũng giống như tánh trắng và cái vỏ sò trắng, chúng là đặc tánh và đặc tánh sở đắc. Tánh Không là phẩm tánh cao nhất, là bản tánh rốt ráo của toàn thể pháp giới.

CHÚ THÍCH

(1) Kinh Giải Thâm Mật - Sutra Unravelling the Thought (Samdhinirmocana-sutra). P774. Vol. 29. Bản dịch của John Powers (Wisdom of Buddha). Dharma Publishing, 1995.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19878)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28997)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20713)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19463)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30549)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36470)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33265)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35595)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 21007)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21943)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25281)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25819)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31295)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18583)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25164)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23799)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28963)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20896)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31466)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25576)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29744)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22542)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25743)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23307)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25762)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23763)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40629)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23364)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22486)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22107)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23523)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16984)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23300)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24346)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41136)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 19020)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20513)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27748)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38149)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34096)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36819)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 24032)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29229)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60193)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27638)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68778)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24554)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24519)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22742)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26390)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26571)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20842)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20087)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27587)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46482)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53605)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23633)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21126)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25619)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29298)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant