Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời nói đầu

07 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9710)
Lời nói đầu

CON ĐƯỜNG KIM CƯƠNG THỪA VỀ SỰ TỊNH HÓA

LAMA THUBTEN YESHE.
Bản dịch Việt : Kiến Không
Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức, 1999
blank
blank

LỜI NÓI ĐẦU

MỘT GIẢI PHÁP CHO MỌI VẤN ĐỀ CỦA ĐỜI SỐNG
THIỀN ĐỊNH TỊNH HÓA 
KIM CƯƠNG TÁT ĐỎA (VAJRASATTVA)

Tôi muốn giải thích sự quan trọng lớn lao của việc thiền định Vajrasattva và thực hành trì tụng. Tại sao, vì nó quan trọng ngay cả cho những người tin tưởng vào chính cuộc đời này là thực !

Mọi thành công trong cuộc đời, gồm những thứ bình thường như gia đình, bạn bè, công việc, sức khỏe, tài sảnquyền lực đều tùy thuộc vào việc tịnh hóa những chướng ngại của nghiệp bất thiện và không tạo nghiệp bất thiện nữa. Chúng ta tạo nghiệp bất thiện như thế nào ? Chẳng hạn khi chúng ta dấn thân vào muời việc bất thiện do tính ích kỷmê lầm. Tâm thức mê lầmsi mê, tham luyếnsân hận ; mười việc bất thiện là : Thân có ba : sát, đạo, dâm – Ngữ có bốn : nói dối, nói xấu, nói tổn thương người khác, nói tầm phào – Ý có ba : thèm khát, ý xấu và tà kiến. Theo luật tự nhiên của nghiệp, nếu bạn làm tổn thương người khác tức là bạn tự làm tổn thương mình.

Và nó cũng vận hành như vậy trên con đường ngược lại. Nếu bạn muốn người khác thương yêu mình, trước tiên bạn phải thương yêu người khác. Nếu giúp đỡ và làm lợi ích cho người khác, tự nhiên họ sẽ giúp đỡ hay tạo lợi ích cho bạn. Định luật nhân quả giản dị như thế. Việc thực hành tịnh hóa Vajrasattva có năng lực mạnh hơn các nghiệp bất thiện, nó có thể che chở cho bạn khỏi trải nghiệm những khó khăn do nghiệp bất thiện mang lại. Do vậy, thực hành tịnh hóa là giải pháp quan trọng nhất cho những khó khăn, và cực kỳ cần thiết, ngay cả cho những người chỉ tin có một kiếp sống này.

Tiếc thay, tâm của những người như vậy thường không rộng mở để học hỏi những điều mới về thực tại của đời sống hay bản tánh của những hiện tượng – những triết lý mới, chủ đề mới. Họ thậm chí cũng chẳng phân tích những khả tính mới. Tất cả cả điều này chỉ ngăn cản họ không kinh nghiệm được hạnh phúc tạm thời hay hạnh phúc tối hậu. Nếu bạn không muốn những khó khăn trong quan hệ, thất bại trong làm ăn, bị bệnh tật như ung thư hay AIDS, bị tai tiếng hay chỉ trích của người khác thì việc thực hành Vajrasattva đặc biệt quan trọng.

Khi nói về sự trưởng thành của tâm linh, việc thực hành tịnh hóa Vajrasattva trở nên quan trọng hơn nhiều. Chẳng hạn, Đức Văn Thù (Manjushri) khuyên Lama Tsong Khapa : “Cách hiện thực hóa con đường giác ngộ nhanh chóng là làm ba việc : tu hành tịnh hóa và tích lũy công đức, chú tâm cầu nguyện đến Đạo sư, và tu hành tâm thức trên con đường giác ngộ.”

Vì những lý do đó, việc thực hành Vajrasattva rất phổ biến ở tất cả bốn truyền thống của Đạo Phật Tây Tạng : Nyingma, Kagyu, Sakya, Geluk, dùng để tịnh hóa những chướng ngại, che ám, nghiệp bất thiện và bệnh tật, Tantra gốc Dorje Gyašn (Trang hoàng Kim Cương) nói rằng nếu bạn luôn luôn không ý thứccẩn trọng, ngay cả những nhân xấu nhỏ bé cũng gây ra thương tổn to lớn cho thân, ngữ, tâm của bạn giống như nọc rắn lan tràn nhanh chóng khắp thân ngày càng trở nên tệ hại, gây nguy hiểm cho đời sống bạn.

Bậc Đại Giác Pabongka Dechen Nyingpo nói rằng nếu bạn giết một con trùng nhỏ bé mà không tu hành tịnh hóa Vajrasattva trong ngày đó, sức nặng của nghiệp sẽ tăng gấp đôi ở ngày kế tiếp, ngày thứ ba lại tăng gấp đôi và tới ngày thứ 15 sẽ nặng như giết một người. Ở ngày 18 sẽ phát triển 131.072 lần. Vậy bạn thấy đó, hàng tuần, tháng, năm trôi qua, một nghiệp bất thiện nhỏ bé sẽ nhân lên nhiều lần chẳng sớm thì muộn sẽ trở thành một ngọn núi với kích thước của trái đất này. Và đến lúc chết, nó trở nên quá đỗi nặng nề.

Dĩ nhiên, ở đây tôi chỉ nói về nghiệp tiêu cực nhỏ bé, nhưng hàng ngày chúng ta tích tập nhiều, rất nhiều nghiệp tiêu cực của thân, ngữ, ý. Sức nặng của mỗi một nghiệp tiêu tực nhỏ bé tạo ra mỗi ngày lại nhân lên nhiều lần, tạo ra sức nặng không thể tưởng được. Và chắc chắn rằng hàng ngày bên cạnh những nghiệp bất thiện nhỏ bé, chúng ta còn tạo nhiều nghiệp bất thiện to lớn. Cho nên từ vô thủy cũng như ngay trong kiếp sống này chúng ta đã tạo nhiều nghiệp nặng. Nếu bạn quán tưởng về sự nhân lên tiếp tục của tất cả những nghiệp đó thì thật không thể nào tưởng tượng nổi.

Tantra Dorje Gyašn cũng nói nếu bạn tụng niệm chân ngôn Một trăm âm Vajrasattva hai mươi mốt lần trong một ngày, sẽ ngăn ngừa những nghiệp bất thiện phát triển. Những bậc chứng ngộ cao cả, vĩ đại cũng giải thích đây là cách để tịnh hóa bất cứ những sa đọa và phạm giới nào mà bạn đã tích lũy. Hơn thế nữa, Đức Trijang Rinpoche mà tự thân Ngài thực sự là Đức Heruka đã giải thích rằng việc trì tụng chân ngôn ngắn Vajrasattva (OM VAJRASATTVA HUM) hai mươi mốt lần một ngày là một sức mạnh tịnh hóa không thể nghĩ bàn. Chân ngôn này không những có sức mạnh ngăn cản bất cứ nghiệp bất thiện nào đã tạo trong ngày phát triển mà còn tịnh hóa hoàn toàn tất cả những tiêu cực của bạn đã tạo trong ngày hôm nay, trong đời này, và ngay cả trong những kiếp đầu thai từ vô thủy của bạn.

Đây là một số những lợi lạc chẳng thể nghĩ bàn của việc thực hành trì tụng và thiền định Vajrasattva. Hơn nữa, Ngài cũng dạy rằng nếu trì tụng chân ngôn Vajrasattva một trăm âm một trăm ngàn biến bạn có thể tịnh hóa được ngay cả việc phạm đại giới của Tantra Yoga tối thượng (Highest Yoga Tantra). Do đó bạn chắc chắn có thể tịnh hóa được việc phá hư gốc Pratimoksha (sự giải thoát của cá nhân hay biệt giải thoát) và những lời nguyện của hạnh Bồ tát qua kỹ thuật này. 

Những vị thiền giả có kinh nghiệm đã khuyên rằng nói chung rất quan trọng khi cố gắng thực hành tịnh hóa trong cuộc sống hàng ngày, đây là con đường đạt đến những chứng ngộ tâm linh. Ngài Geshe Dolbowa của phái Kadam nói rằng nếu bạn tu hành sự tịnh hóa và sự tích lũy công đức liên tụcchuyển tâm bạn vào đường đạo, những chứng ngộ lam-rim bạn nghĩ trong một trăm năm mới đạt được, sẽ đến với bạn chỉ trong bảy năm. Đó là những hướng dẫn đầy khích lệ của những thiền giả kinh nghiệm cao, đã đạt được những cấp độ khác nhau trên con đường giác ngộ.

Lama Atisha thường nói có vô số không thể nghĩ bàn những cửa sa đọa cho những hành giả đã nhận được sự truyền pháp Tantra Yoga tối thượng. Chẳng hạn chỉ nhìn vào một vật bình thường như một cái lọ và thấy nó như bình thường, là một sa đọa. Cũng như một mạn đà la tinh sạch bị bụi đóng nhanh chóng trên bàn thờ, cũng vậy dòng tâm thức của bạn tiếp tục tích chứa hàng đống tiêu cực trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, khi nghe điều này chớ vội kết luận, những sự nhận lãnh quán đảnh mật chú dễ đưa đến việc sa đọa đẻ không còn có khả năng đạt đến giác ngộ. Lama Atisha nói chỉ có những người vì không biết rằng mật chú chứa đựng những phương tiện thiện xảo không thể nghĩ bàn về sự tịnh hóa những sa đọa nên mới nghĩ như vậy.

Ngài nói : “Chỉ một cục đá có thể ném một trăm con chim, đó là phương tiện thiện xảo được gọi là sự thực hành Vajrasattva.” Điều mà Lama Atisha nói là về một mặt, chỉ trong một phút, thật dễ dàng tích tập một số sa đọa và bất thiện như mưa đổ xuống – chẳng hạn nhìn thấy một đối tượng là bình thường – nhưng mặt khác có phương tiện thiện xảo của tantra như sự thực hành Vajrasattva. Một sự thực hành này sẽ tịnh hóa vô số những tiêu cực do phá vỡ những lời hứa nguyện gốc hay chi nhánh, và trong cách này bạn có thể phát triển tâm thức của mình trên con đường giác ngộ.

Do vậy, việc tu hành Vajrasattva đặc biệt quan trọng – cho cả những ai dù chấp nhận hay không vào sự hiện hữu của sự tái sanh và nghiệp.

Sự bình giảng về Vajrasattva trong quyển sách này là một hướng dẫn đầy kinh nghiệm của Đạo Sư tôi, Lama Yeshe, đã trao cho tôi, người mà ngay cả với cách nhìn thông thường cũng là một đại Yogini, và người đã chăm sóc tôi như một người cha với đứa con duy nhất của mình. Ngài không chỉ trao cho tôi những phương tiện của cuộc sống như thực phẩm, quần áo, mà còn hướng dẫn tôi trong Pháp hơn ba mươi năm ròng.

Bất cứ ai học hỏi quyển sách này và có được cảm hứng để tu hành và ẩn tu về sự thực hành Vajrasattva đều được sự hướng dẫn của lòng bi của Lama. Ngài giải thoát cho bạn nhiều kiếp nghiệp bất thiện, nhiều kiếp đau khổ không thể tưởng được ở những cõi thấp, và cũng như cõi người, trời, và dẫn bạn đến giải thoáttoàn giác.

Cầu chúc cho những ai thấy, tiếp xúc, nhớ lại hay thậm chí nghĩ hoặc nói về quyển sách này được không bao giờ sanh vào những cõi thấp, chỉ nhận được sự đầu thai thành một con người hoàn hảo, gặp được những thiện tri thức Đại thừa đức hạnh và đầy đủ phẩm tính, thực hành tịnh hóa Vajrasattva mỗi ngày và mau chóng thành tựu trạng thái giác ngộ của Đạo Sư Vajrasattva. Đây là điều mong ước của tôi.

Cám ơn các bạn rất nhiều.

 Thubten Zopa

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49713)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34611)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33429)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43902)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57025)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47538)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39412)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38455)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52910)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36585)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32228)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40434)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43460)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31437)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46693)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36163)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28682)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29212)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31866)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28794)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33343)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29110)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60966)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39718)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26640)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29638)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37341)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40068)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26824)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42629)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37269)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28273)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28881)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26388)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27155)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26176)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34601)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27792)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30451)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33259)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28546)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30056)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25475)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21832)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51271)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26706)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28601)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27686)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24340)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27449)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31910)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30172)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27679)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35408)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27427)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 29992)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31744)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 22996)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24167)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23007)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant