Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời nói đầu

07 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9715)
Lời nói đầu

CON ĐƯỜNG KIM CƯƠNG THỪA VỀ SỰ TỊNH HÓA

LAMA THUBTEN YESHE.
Bản dịch Việt : Kiến Không
Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức, 1999
blank
blank

LỜI NÓI ĐẦU

MỘT GIẢI PHÁP CHO MỌI VẤN ĐỀ CỦA ĐỜI SỐNG
THIỀN ĐỊNH TỊNH HÓA 
KIM CƯƠNG TÁT ĐỎA (VAJRASATTVA)

Tôi muốn giải thích sự quan trọng lớn lao của việc thiền định Vajrasattva và thực hành trì tụng. Tại sao, vì nó quan trọng ngay cả cho những người tin tưởng vào chính cuộc đời này là thực !

Mọi thành công trong cuộc đời, gồm những thứ bình thường như gia đình, bạn bè, công việc, sức khỏe, tài sảnquyền lực đều tùy thuộc vào việc tịnh hóa những chướng ngại của nghiệp bất thiện và không tạo nghiệp bất thiện nữa. Chúng ta tạo nghiệp bất thiện như thế nào ? Chẳng hạn khi chúng ta dấn thân vào muời việc bất thiện do tính ích kỷmê lầm. Tâm thức mê lầmsi mê, tham luyếnsân hận ; mười việc bất thiện là : Thân có ba : sát, đạo, dâm – Ngữ có bốn : nói dối, nói xấu, nói tổn thương người khác, nói tầm phào – Ý có ba : thèm khát, ý xấu và tà kiến. Theo luật tự nhiên của nghiệp, nếu bạn làm tổn thương người khác tức là bạn tự làm tổn thương mình.

Và nó cũng vận hành như vậy trên con đường ngược lại. Nếu bạn muốn người khác thương yêu mình, trước tiên bạn phải thương yêu người khác. Nếu giúp đỡ và làm lợi ích cho người khác, tự nhiên họ sẽ giúp đỡ hay tạo lợi ích cho bạn. Định luật nhân quả giản dị như thế. Việc thực hành tịnh hóa Vajrasattva có năng lực mạnh hơn các nghiệp bất thiện, nó có thể che chở cho bạn khỏi trải nghiệm những khó khăn do nghiệp bất thiện mang lại. Do vậy, thực hành tịnh hóa là giải pháp quan trọng nhất cho những khó khăn, và cực kỳ cần thiết, ngay cả cho những người chỉ tin có một kiếp sống này.

Tiếc thay, tâm của những người như vậy thường không rộng mở để học hỏi những điều mới về thực tại của đời sống hay bản tánh của những hiện tượng – những triết lý mới, chủ đề mới. Họ thậm chí cũng chẳng phân tích những khả tính mới. Tất cả cả điều này chỉ ngăn cản họ không kinh nghiệm được hạnh phúc tạm thời hay hạnh phúc tối hậu. Nếu bạn không muốn những khó khăn trong quan hệ, thất bại trong làm ăn, bị bệnh tật như ung thư hay AIDS, bị tai tiếng hay chỉ trích của người khác thì việc thực hành Vajrasattva đặc biệt quan trọng.

Khi nói về sự trưởng thành của tâm linh, việc thực hành tịnh hóa Vajrasattva trở nên quan trọng hơn nhiều. Chẳng hạn, Đức Văn Thù (Manjushri) khuyên Lama Tsong Khapa : “Cách hiện thực hóa con đường giác ngộ nhanh chóng là làm ba việc : tu hành tịnh hóa và tích lũy công đức, chú tâm cầu nguyện đến Đạo sư, và tu hành tâm thức trên con đường giác ngộ.”

Vì những lý do đó, việc thực hành Vajrasattva rất phổ biến ở tất cả bốn truyền thống của Đạo Phật Tây Tạng : Nyingma, Kagyu, Sakya, Geluk, dùng để tịnh hóa những chướng ngại, che ám, nghiệp bất thiện và bệnh tật, Tantra gốc Dorje Gyašn (Trang hoàng Kim Cương) nói rằng nếu bạn luôn luôn không ý thứccẩn trọng, ngay cả những nhân xấu nhỏ bé cũng gây ra thương tổn to lớn cho thân, ngữ, tâm của bạn giống như nọc rắn lan tràn nhanh chóng khắp thân ngày càng trở nên tệ hại, gây nguy hiểm cho đời sống bạn.

Bậc Đại Giác Pabongka Dechen Nyingpo nói rằng nếu bạn giết một con trùng nhỏ bé mà không tu hành tịnh hóa Vajrasattva trong ngày đó, sức nặng của nghiệp sẽ tăng gấp đôi ở ngày kế tiếp, ngày thứ ba lại tăng gấp đôi và tới ngày thứ 15 sẽ nặng như giết một người. Ở ngày 18 sẽ phát triển 131.072 lần. Vậy bạn thấy đó, hàng tuần, tháng, năm trôi qua, một nghiệp bất thiện nhỏ bé sẽ nhân lên nhiều lần chẳng sớm thì muộn sẽ trở thành một ngọn núi với kích thước của trái đất này. Và đến lúc chết, nó trở nên quá đỗi nặng nề.

Dĩ nhiên, ở đây tôi chỉ nói về nghiệp tiêu cực nhỏ bé, nhưng hàng ngày chúng ta tích tập nhiều, rất nhiều nghiệp tiêu cực của thân, ngữ, ý. Sức nặng của mỗi một nghiệp tiêu tực nhỏ bé tạo ra mỗi ngày lại nhân lên nhiều lần, tạo ra sức nặng không thể tưởng được. Và chắc chắn rằng hàng ngày bên cạnh những nghiệp bất thiện nhỏ bé, chúng ta còn tạo nhiều nghiệp bất thiện to lớn. Cho nên từ vô thủy cũng như ngay trong kiếp sống này chúng ta đã tạo nhiều nghiệp nặng. Nếu bạn quán tưởng về sự nhân lên tiếp tục của tất cả những nghiệp đó thì thật không thể nào tưởng tượng nổi.

Tantra Dorje Gyašn cũng nói nếu bạn tụng niệm chân ngôn Một trăm âm Vajrasattva hai mươi mốt lần trong một ngày, sẽ ngăn ngừa những nghiệp bất thiện phát triển. Những bậc chứng ngộ cao cả, vĩ đại cũng giải thích đây là cách để tịnh hóa bất cứ những sa đọa và phạm giới nào mà bạn đã tích lũy. Hơn thế nữa, Đức Trijang Rinpoche mà tự thân Ngài thực sự là Đức Heruka đã giải thích rằng việc trì tụng chân ngôn ngắn Vajrasattva (OM VAJRASATTVA HUM) hai mươi mốt lần một ngày là một sức mạnh tịnh hóa không thể nghĩ bàn. Chân ngôn này không những có sức mạnh ngăn cản bất cứ nghiệp bất thiện nào đã tạo trong ngày phát triển mà còn tịnh hóa hoàn toàn tất cả những tiêu cực của bạn đã tạo trong ngày hôm nay, trong đời này, và ngay cả trong những kiếp đầu thai từ vô thủy của bạn.

Đây là một số những lợi lạc chẳng thể nghĩ bàn của việc thực hành trì tụng và thiền định Vajrasattva. Hơn nữa, Ngài cũng dạy rằng nếu trì tụng chân ngôn Vajrasattva một trăm âm một trăm ngàn biến bạn có thể tịnh hóa được ngay cả việc phạm đại giới của Tantra Yoga tối thượng (Highest Yoga Tantra). Do đó bạn chắc chắn có thể tịnh hóa được việc phá hư gốc Pratimoksha (sự giải thoát của cá nhân hay biệt giải thoát) và những lời nguyện của hạnh Bồ tát qua kỹ thuật này. 

Những vị thiền giả có kinh nghiệm đã khuyên rằng nói chung rất quan trọng khi cố gắng thực hành tịnh hóa trong cuộc sống hàng ngày, đây là con đường đạt đến những chứng ngộ tâm linh. Ngài Geshe Dolbowa của phái Kadam nói rằng nếu bạn tu hành sự tịnh hóa và sự tích lũy công đức liên tụcchuyển tâm bạn vào đường đạo, những chứng ngộ lam-rim bạn nghĩ trong một trăm năm mới đạt được, sẽ đến với bạn chỉ trong bảy năm. Đó là những hướng dẫn đầy khích lệ của những thiền giả kinh nghiệm cao, đã đạt được những cấp độ khác nhau trên con đường giác ngộ.

Lama Atisha thường nói có vô số không thể nghĩ bàn những cửa sa đọa cho những hành giả đã nhận được sự truyền pháp Tantra Yoga tối thượng. Chẳng hạn chỉ nhìn vào một vật bình thường như một cái lọ và thấy nó như bình thường, là một sa đọa. Cũng như một mạn đà la tinh sạch bị bụi đóng nhanh chóng trên bàn thờ, cũng vậy dòng tâm thức của bạn tiếp tục tích chứa hàng đống tiêu cực trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, khi nghe điều này chớ vội kết luận, những sự nhận lãnh quán đảnh mật chú dễ đưa đến việc sa đọa đẻ không còn có khả năng đạt đến giác ngộ. Lama Atisha nói chỉ có những người vì không biết rằng mật chú chứa đựng những phương tiện thiện xảo không thể nghĩ bàn về sự tịnh hóa những sa đọa nên mới nghĩ như vậy.

Ngài nói : “Chỉ một cục đá có thể ném một trăm con chim, đó là phương tiện thiện xảo được gọi là sự thực hành Vajrasattva.” Điều mà Lama Atisha nói là về một mặt, chỉ trong một phút, thật dễ dàng tích tập một số sa đọa và bất thiện như mưa đổ xuống – chẳng hạn nhìn thấy một đối tượng là bình thường – nhưng mặt khác có phương tiện thiện xảo của tantra như sự thực hành Vajrasattva. Một sự thực hành này sẽ tịnh hóa vô số những tiêu cực do phá vỡ những lời hứa nguyện gốc hay chi nhánh, và trong cách này bạn có thể phát triển tâm thức của mình trên con đường giác ngộ.

Do vậy, việc tu hành Vajrasattva đặc biệt quan trọng – cho cả những ai dù chấp nhận hay không vào sự hiện hữu của sự tái sanh và nghiệp.

Sự bình giảng về Vajrasattva trong quyển sách này là một hướng dẫn đầy kinh nghiệm của Đạo Sư tôi, Lama Yeshe, đã trao cho tôi, người mà ngay cả với cách nhìn thông thường cũng là một đại Yogini, và người đã chăm sóc tôi như một người cha với đứa con duy nhất của mình. Ngài không chỉ trao cho tôi những phương tiện của cuộc sống như thực phẩm, quần áo, mà còn hướng dẫn tôi trong Pháp hơn ba mươi năm ròng.

Bất cứ ai học hỏi quyển sách này và có được cảm hứng để tu hành và ẩn tu về sự thực hành Vajrasattva đều được sự hướng dẫn của lòng bi của Lama. Ngài giải thoát cho bạn nhiều kiếp nghiệp bất thiện, nhiều kiếp đau khổ không thể tưởng được ở những cõi thấp, và cũng như cõi người, trời, và dẫn bạn đến giải thoáttoàn giác.

Cầu chúc cho những ai thấy, tiếp xúc, nhớ lại hay thậm chí nghĩ hoặc nói về quyển sách này được không bao giờ sanh vào những cõi thấp, chỉ nhận được sự đầu thai thành một con người hoàn hảo, gặp được những thiện tri thức Đại thừa đức hạnh và đầy đủ phẩm tính, thực hành tịnh hóa Vajrasattva mỗi ngày và mau chóng thành tựu trạng thái giác ngộ của Đạo Sư Vajrasattva. Đây là điều mong ước của tôi.

Cám ơn các bạn rất nhiều.

 Thubten Zopa

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19688)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23951)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41208)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19686)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23973)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21741)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23291)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27496)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26547)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29305)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33176)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20179)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25760)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20902)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31300)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38552)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21422)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44240)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29812)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42186)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22128)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45735)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32103)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23946)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24377)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29244)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33906)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27676)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32118)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21058)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28840)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21561)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28055)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22057)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21421)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19489)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19457)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19825)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19233)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29168)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20607)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28272)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23645)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33163)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31831)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21363)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39609)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21542)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19365)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26369)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24810)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21747)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22370)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29124)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22550)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20465)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23508)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21229)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35304)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24539)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant