Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chú Thích

07 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11270)
Chú Thích

CON ĐƯỜNG KIM CƯƠNG THỪA VỀ SỰ TỊNH HÓA

LAMA THUBTEN YESHE.
Bản dịch Việt : Kiến Không
Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức, 1999
blank
blank
PHẦN PHỤ LỤC
 

CHÚ THÍCH

1. Xem Giải thoát trong lòng Bàn Tay Bạn. (bốn năng lực chống lại) và (nghiệp).

2. Xem Lạc của Lửa Bên Trong của Lama Yeshe, gồm những chỉ dạy của ngài về tum-mo từ Sáu yoga của Naropa.

3. Năm 1981-82 Lama Yeshe sửa soạn mẻ đầu tiên các viên thuốc chu-len theo những thể thức truyền thống, dùng những nguyên liệu tự nhiên cực kỳ giá trịdiễn tả chi tiết trong một cuốn sách nhỏ xuất bản bởi nhà xuất bản Wisdom vào lúc đó. Những viên thuốc được ban phước gia bị bằng trì tụng một triệu thần chú Heruka Vajrasattva. Mùa hè 1982, năm mươi học trò Pháp từ khắp thế giới đã dùng những viên thuốc này dưới sự lãnh đạo của đại thiền giả quá cố Geshe Jampa Wangdu và làm những cuộc nhập thất thành côngTrung Tâm Ẩn Cư Tushita, Dharamsala, Ấn Độ, chứng minh sự thực hành này không chỉ dành riêng cho những người Tây Tạng nữa. Những cuộc nhập thất ngắn ngày này vẫn còn được hướng dẫn ở một số trung tâm FPMT, dùng những viên thuốc được làm ở Viện Y Học và Chiêm Tinh Học Tây Tạng ở Dharamsala

4. Xem Giới Thiệu vào Tantra.

5. Xem phụ lục 2, bản dịch và giải nghĩa thần chú này. Xin xem thêm phụ lục 3, về phương pháp sử dụng thần chú này.

6. Xem Phương Pháp Trực Tiếp và Không Sai Lầm của Lama Zopa về những giáo huấn đầy đủ về nhận lãnh những điều luật.

7. Một số người cũng đặt một torma thứ tư trong chén cúng tượng trưng sự dâng cúng thức ăn. Nếu không, chén này có thể chứa một số thức ăn khác hay nước. Dầu nó chứa gì cũng được dâng cúng mỗi ngày. Lama Zopa Rinpoche nhấn mạnh rằng những thức ăn khác có thể thay thế cho những bánh torma truyền thống, như Lama Yeshe đã nói. Có nhiều biến thái trong những phẩm vật nghi lễ này, và các bạn nên hỏi lama của bạn để biết cần làm gì.

8. Một cách gọn để ban phước, gia bị torma là như sau : Trước hết tụng HA HO HRI ba lần với hai bàn tay bắt đúng ấn, bàn tay trái trên tay phải, mở ra, đối diện nhau, ngón tay chỉ thẳng. Với sự trì tụng này, tất cả lỗi lầm về màu sắc, hương, vị và tiềm năng đều được tịnh hóa, và torma trở thành cam lồ phúc lạc. Rồi trì tụng OM AH HUM ba lần. Cam lồ tăng trưởng lớn rộng và được ban phước. Hãy quán tưởngtrở thành vô tận. Sau đó, làm sự cúng dường bên ngoài : OM VAJRASATTVA ARGHAM… SHABTA PRATICCHA HUM SVAHA. Cuối cùng, tụng đọc tán thán Nyi-me-ye-she… từ bài sadhana, thay thế …ch’ak-s’ašl-toš (tôn kínhtán thán) bằng …la-ch’al-ts’ašl trong dòng cuối. Với một nghi lễ ban phước dài hơn, bạn có thể thực hiện sự cúng dường bên trong, chẳng hạn từ sadhana Vajrayogini, hay sự ban phước của Heruka Vajrasattva tsok như đã giải thích trong phần 4 của cuốn sách này.

9. Geshe Tsulga, đại học Phật học viện Sera-je (và là thầy dạy thường trựctrung tâm EPMT bờ biển phía đông Hoa Kỳ) giải thích rằng bạn có thể dâng cúng torma này mỗi ngày, quán tưởng rằng bạn dâng cúng một phần “tươi mới” của nó mỗi lần ; hay bạn có thể đặt một bánh bít-quy hay thực phẩm khác với torma và cúng như là torma chính yếu mỗi ngày. Thời gian tốt nhất để cúng torma là trong thời chót của mỗi ngày. Sau khi trì tụng thần chú, trước lúc dâng cúng và tán thán, hãy ban phước gia bị torma như trên ; rồi quán tưởng rằng những chữ HUM trên lưỡi của Heruka Vajrasattva và Yum Nyem-ma Kar-mo chuyển hóa thành những ống rỗng ánh sáng cầu vồng bề rộng bằng một hạt lúa mạch. Với sự trì tụng thần chú OM VAJRASATTVA SAPARIVARA IDAM BALINTA KAKA KAHI KAHI, những chữ ấy tỏa sáng đến torma và rút ra tinh túy của nó là đại lạc. Rồi trở lại với sadhana.

10. Hộ pháp đặc biệt là Mahakala Bốn Tay. Lý tưởng là bạn dâng cúng torma này ba lần : một lần vào lúc bắt đầu nhập thất, cái tiếp vào khoảng giữa, và cuối cùng, khi cuộc nhập thất của bạn đã kết thúc lễ kang-soš (thành tựuphục hồi) Mahakala có thể được thực hiện khi bạn làm sự cúng dường này.

11. Lama Zopa Rinpoche nói rằng sự dâng cúng torma thứ ba này có thể làm chỉ một lần, vào lúc bắt đầu nhập thất. Tuy nhiên, nó cũng có thể được làm mỗi ngày, hay ba lần trong kỳ nhập thất, cùng với kang-soš Mahakala, như ở trên.

12. Xem Giải Thoát trong Lòng Bàn Tay Bạn về những lợi lạc của việc cúng nước.

13. Việc tương tự áp dụng cho lễ tsok puja Heruka Vajrasattva. Geshe Tsulga nói rằng trong nhập thất, tốt nếu làm lễ tsok Heruka Vajrasattva mỗi ngày, chừng nào nó không cản ngại bạn đạt đến mục tiêu là một trăm ngàn thần chú. Bạn cần nhất định làm lễ tsok đó vào ngày mười và hai mươi lăm mỗi tháng Tây Tạng, là những ngày lễ tsok thường lệ.

14. Geshe Tsulga giải thích rằng để có một tích tập hoàn hảo và để nhận những ban phước gia bị của Heruka Vajrasattva một cách nhanh chóng, mạnh mẽ và liên tục, bạn nên trì tụng ye-she paš-nga. Sau khi bạn đã trì tụng xong một trăm ngàn thần chú Vajrasattva, hãy trì tụng mười ngàn lần khác (nghĩa là một phần mười của tổng số), thay thế những chữ HA ANDZE SVAHA cho chữ PHAT ở cuối thần chú thường lệ. Như thế, bây giờ nó chấm dứt là …SAMAYA SATTVA AH HUM HA ANDZE SVAHA. Lễ puja Dorje Khadro bằng lửa có thể làm sau đó.

15. Geshe Tsulga nói rằng bạn cần đến một trăm ngàn biến thần chú và làm một puja lửa để đủ điều kiện cho một số hoạt động, như những hoạt động được đề cập đến trong một cẩm nang do lama Ngul-chu Dharmabhadra kết tập. Tự quán đảnh là một ví dụ của các hoạt động đó. Dĩ nhiên, bạn có thể làm một puja lửa với bất kỳ bao nhiêu biến thần chú, nhưng nếu nó ít hơn một trăm ngàn biến, bạn sẽ không đủ điều kiện để làm những hoạt động đặc biệt ấy. Mỗi hóa thần của những hoạt động riêng (laš-tsok) của vị ấy.

16. Tây Tạng : tsa-me-nga ; nghĩa đen “năm cái không có sự chọn lựa.” Nghĩa là bạn không có sự chọn lựa mà chỉ tái sanh vào địa ngục khi cuộc đời trong đó bạn đã tạo ra hành động ấy chấm dứt.

17. Xem trang 268 trong đó Lama giải thích tại sao ngài đôi khi không làm điều này.

18. Đối tượng chánh cho sự quy y cũng có thể là Vajradhara, như lama giải thích trong phần bình giảng chính.

19. Xem chú thích 16 ở trên. Trong khi theo những hạn định chung, năm tội ngũ nghịch là không thể sám hối, thì những phương pháp đầy năng lực của tantra cho phép bạn tịnh hóa được chúng.

20. Xem thêm “Tọa cụ ngồi thiền,” trang 146 và trang 265 chỗ Lama giải thích làm cách nào để tạo ra một chỗ ngồi thiền có thể mang đi được.

21. Lama Yeshe đã tổ chức Kỷ Niệm Kinh Nghiệm Giác Ngộ (EEC) đầu tiên, một tụ hội quốc tế những đệ tử Tây phương của ngài ở Bodhgaya, Ấn Độ, vào năm 1982. Khóa sáu tháng gồm những giảng dạy, quán đảnhnhập thất này có hơn hai trăm người học, với gần một trăm tăng và ni. Từ khi Lama tịch, Lama Zopa Rinpoche đã tổ chức thêm hai khóa EEC, lần thứ tư vào năm 1995-96.

22. Buồn thay, đây quả thật là buổi nói chuyện cuối cùng của Lama ở Viện Vajrapani. Dù nói thế, vài tháng sau, ở Nepal, sức khỏe ngài xuống nhanh chóng, và ngài ra đi ở Los Angeles ngày 1 tháng 3 năm 1984. Vài ngày sau, Lama được làm lễ trà tỳ ở Vajrapani, nơi một cái tháp đẹp đẽ được dựng lên để tưởng nhớ ngài.

23. Bản dịch sadhana ở đây phối hợp bản dịch nguyên thủy của Lama – nằm rải rác trong bài bình giảng – với bản dịch của Martin Willson trong Heruka Vajrasattva : Sadhana và Lễ Tiệc (NXB Wisdom, 1984), một bản dịch sát nghĩa bản văn Tây Tạng của Lama.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49781)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34659)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33472)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43965)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57124)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47599)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39447)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38499)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52987)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36628)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32266)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40518)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43524)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31484)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46748)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36231)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28735)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29277)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31927)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28866)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33403)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29172)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 61033)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39815)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26713)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29707)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37421)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40133)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26876)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42708)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37309)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28327)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28911)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26418)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27201)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26212)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34722)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27834)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30506)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33328)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28591)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30105)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25505)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21870)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51354)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26766)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28650)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27738)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24377)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27496)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31985)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30229)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27744)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35495)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27481)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30047)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31818)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23056)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24209)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23063)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant