Hỏi:
Hằng ngày vì công việc làm ăn nên bị dãi đãi rất nhiều, nhưng lúc con đi xe thì có công phu, đôi lúc xẩy ra tai nạn con bị té xe, con còn chưa biết là con bị té, đến chừng con đứng dậy thì mới biết bị thương. Con không biết con có chấp ngồi hay không?
Đáp:
Đi
xe
đâu phải ngồi!
-Nhưng công phu có đúng không?
-Nếu giữ được cái không biết thì đúng, mà dùng cái biết thì không đúng.
- Như hằng ngày sao lúc dãi đãi có khi tham?
- Biết dãi đãi thì không đúng.
- Vì sao có lúc không có thấy câu thoại đầu, có khi vọng tưởng đến, có khi lại buông?
-Tại vì đang tập nên cái biết nhiều hơn cái không biết.
-Như ngày xưa con đi xe gặp người ta lạng lách, bị quẹt xe thì con rất sợ. Từ khi con tham thiền thì con không còn sợ, như vậv có đúng công phu không?
-Trương Quốc Anh tham thiền thì không biết thật nên không có bị thương. Y được chị bảo lãnh qua Pháp, khi đến phi trường đi một khoảng đường thì bị lật xe, mọi người ở trên xe đều bị thương. Lúc nhân viên Hồng Thập Tự kéo y ra, y còn hỏi làm gì vậy? Vì y hoàn toàn không biết, nên không có bị thương. Không biết thì tâm không có tạo, tại ‘tất cả do tâm tạo’, biết thì mới tạo, không biết thì không có tạo.
Khi chở đi bệnh viện để khám rọi kiến, Trương Quốc Anh nói: Khỏi khám, tôi không có bị thương.
Người ta nói: Tuy ở ngoài không có, nhưng ở trong thân làm sao biết? Phải rọi kiến rồi mới biết!
Rọi kiến rồi chứng tỏ hoàn toàn không có bị thương. Tại do không biết thật. Còn cô còn biết nên mới bị thương.
Tất cả ngồi chung trong xe đều có cộng nghiệp, người nào cũng phải bị thương, nhưng Trương Quốc Anh ở trong cộng nghiệp cũng là tai nạn xe hơi, mà có biệt nghiệp y không có bị thương, khác hơn những người ngồi chung trong xe. Ở trong cộng nghiệp có biệt nghiệp, trong biệt nghiệp có cộng nghiệp.
Vũ Trụ Quan Thế Kỷ 21 nói: “Chuyện đi đầu thai tức là thần thức đầu thai”. Tại sao muôn ngàn cha mẹ không đầu thai nơi đó, mà lại đầu thai ở cha mẹ này? Vì cùng với cha mẹ này có cộng nghiệp, cho nên nó có sức hút, sức hút đó gọi là từ lực.
Hỏi:
Thế
nào
là vãng sanh Cực Lạc?
Đáp:
Tu
Tịnh
Độ cũng có chỗ không cần vãng sanh. Tịnh độ có
ba cách tu:
-
Thật tướng niệm Phật khỏi cần vãng sanh, tức tâm tịnh
là Phật độ tịnh, nên cách này khỏi cần vãng sanh gần
giống như Thiền tông vậy.
- Quán tưởng niệm Phật có 16 thiền quán ghi ở trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ.
- Trì Danh Niệm Phật thì có cầu vãng sanh. Nhưng phải biết Tín, Nguyện, Hạnh tức là phải phát đại nguyện và thực hành phát đại nguyện của mình phát thì mới được vãng sanh. Như đới nghiệp vãng sanh mà nói lâm chung 10 niệm cũng được vãng sanh, nếu không đúng tông chỉ của Tịnh Độ thì 10 triệu niệm cũng không được vãng sanh. Tu đúng tông chỉ Tịnh Độ chỉ cần 1 niệm cũng được vãng sanh, chứ khỏi cần 10 niệm.
Nghĩa
chữ “Phật” là giác ngộ, muốn giác ngộ thì phải từ
chỗ nghi mới đến ngộ, nên tất cả muốn ngộ thì phải
nghi, không những Phật pháp mà pháp thế gian cũng vậy. Như
Newton thấy trái bôm trên cây rơi xuống đất, ông phát nghi,
nhưng ông dùng bộ não đi nghiên cứu tìm hiểu gọi là hồ
nghi thì mới ngộ sức hấp dẫn lực vạn hữu.
Thiền
tông
phát nghi thì không cho tìm hiểu, mà lại phải chấm dứt
tìm hiểu gọi là chánh nghi (không biết), dùng cái không biết
mới chấm dứt tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết,
nên mới ngộ được bản tâm. Ngộ được bản tâm thì biết
không có sanh tử.
Tịnh Độ còn chấp có sanh tử và Tiểu thừa cũng chấp có sanh tử, vì có sanh tử mới có Niết Bàn.
Tâm như hư không vô sở hữu thì không có trói buộc gọi là giải thoát, chứ không phải trói buộc rồi mở trói mới giải thoát.
Người
trì danh niệm Phật có trói buộc, có sanh tử, tưởng có Phật
để thành. Những người tin tự tâm và tin pháp môn rồi tham
thiền. Còn không tin tự tâm, khi được vãng sanh nhờ Phật
Di Đà dạy cách tham thiền, rồi cũng từ nghi đến ngộ. Việc
này có ghi trong Kinh Tịnh Độ mà người ta không biết. Như
thiền quán có ghi trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ mà người
ta cũng không để ý tới, cứ cho Tịnh Độ không phải Thiền,
nhưng sự thật Tịnh Độ là Thiền.
Tất
cả
các pháp môn của Phật dạy đều lấy Thiền làm chủ
yếu, có thiền mới có tu. Tà ma ngoại đạo cũng đều lấy
thiền là chủ yếu để tu, tà ma ngoại đạo không phá ngã
chấp nên không được giải thoát. Còn chánh pháp phá ngã
chấp thì mới giải thoát. Tịnh Độ không phá ngã chấp triệt
để, khi được vãng sanh Cực Lạc thì Phật Di Đà dạy phá
ngã chấp triệt để rồi mới thành Phật. Tức là dạy từ
nghi đến ngộ.
Hỏi:
Con
tham
thoại đầu khi đến ngày sám hối thì con có tụng kinh
sám hối không?
Đáp:
Sám
hối
theo giới luật nhà Phật thì phải đối người sám hối,
chứ không phải ở trước bàn thờ Phật mà sám hối. Như
người đã thọ ngũ giới muốn sám hối thì ở trước mặt
người đã thọ ngũ giới mà sám hối. Còn người đã thọ
giới Bồ Tát muốn sám hối thì phải ở trước người đã
thọ giới Bồ Tát mà sám hối. Sa Di cũng phải ở trước
Sa Di mà sám hối, Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni cũng như vậy. Cấp
dưới thì sám hối cấp trên. Nếu ở trước bàn thờ Phật
sám hối thì không có ai chứng minh, sau này cũng có thể phạm
lại, vì không có ai biết. Còn trước mặt người sám hối
có người đó chứng minh thì người ấy sợ biết nên không
phạm nữa.
Sám
hối triệt để có bài kệ:
Tội
từ
tâm khởi đem tâm sám,
Tâm
nếu
diệt rồi, tội cũng tiêu.
Tội
tiêu
tâm diệt cả đều không,
Ấy
mới
gọi là chân sám hối.
Vì tất cả đều do tâm tạo, nên phải từ tâm mà sám hối. Nói đến tâm là vọng tâm cũng là bộ não. Tâm làm thì tâm sám hối, nếu tâm đã diệt rồi, tự nhiên tội cũng tiêu. Tại có tâm nên mới có tội, nếu không có tâm thì tội dựa ở chỗ nào? Cho nên, tâm diệt thì tội cũng tiêu. Tâm đã diệt và tội tiêu, cả hai đều không có, ấy mới là chân sám hối.
Tụng kinh là dạy mình tu, tụng kinh không phải tụng cho Phật nghe, tức là nghe Phật thuyết pháp, theo lời Phật dạy mà tu. Vì vậy, giáo môn lúc đang tụng là đang tu, tức là tụng đến câu nào thì quán tưởng đến câu văn đó, gọi là tùy văn quán tưởng. Như ở chùa có 30 Tăng thì phải 30 Tăng tụng kinh, mỗi ngày có 3 thời kinh. Tông Thiên Thai của Ngài Đế Nhàn có mỗi thời kinh là phải 2 giờ. Tất cả chúng Tăng tựu lại tụng và quán tưởng. Nếu tụng không đủ 2 giờ thì Ngài quở làm biếng.
Bây giờ, các chùa có khi tụng khoảng 40 phút hay chúng đông mà chỉ vài vị tụng cho Phật nghe là đủ rồi, chứ không phải tu.
Hỏi:
Quyển
Cội
Nguồn Truyền Thừa của Ngài Nguyệt Khê nói “nhìn chỗ
sơn cùng thủy tận” có giống chỗ Sư Phụ dạy hỏi và
nhìn không?
Đáp:
Sơn
cùng
thì không có, thủy tận cũng là không có; không có thì
không biết, như vậy đâu có khác! Lời nói khác nhưng ý không
khác. Như nói “Tâm như hư không vô sở hữu”, vô sở hữu
thì không có trói buộc gọi là giải thoát, vô sở hữu thì
trống rỗng nên không có khứ lai gọi là Như Lai, trống rỗng
khắp không gian thì tự nhiên khắp thời gian không có gián
đoạn gọi là Niết Bàn. Mặc dầu, danh từ khác nhau nhưng
ý thì không khác, cũng là trống rỗng (vô sở hữu).
Sơn cùng thủy tận là không có tức là trống rỗng, trống rỗng không có cái gì thì lấy gì để biết? Nên không biết.
Hỏi:
Trong
Thiền
Thất Khai Thị Lục nói: “Khi mỗi lần khai thị thì
Ngài Lai Quả cứ nói ‘hãy tham đi!’ Sao không thấy Ngài
dạy như thế nào?
Đáp:
Tham
là
hỏi, cứ hỏi tiếp hoài. Nói tham là bao gồm hỏi và nhìn,
nên gọi là chiếu cố thoại đầu, chiếu cố là nhìn, thoại
đầu là chỗ chưa nổi niệm tức không biết. Nói đi nói
lại cũng bao nhiêu đó, đừng có đuổi theo danh từ, bất
cứ nói danh từ gì thì không có khác. Bồ Đề, Niết Bàn,
giải thoát, Như Lai,… đều không có khác; danh từ muôn ngàn
sai biệt, nhưng ý không khác. Chỉ là trống rỗng như hư không.
Hỏi:
Nghi
thoại
đầu là như thế nào?
Đáp:
Thoại
đầu
là không có ý niệm nào, nên không biết mới là nghi.
Nếu đã biết một cái gì thì không còn nghi. Không có nghi
thì không có tham thiền. Cho nên hỏi và nhìn giữ cái không
biết là đủ rồi.
Hỏi:
Làm
phước
kiếp này hưởng hay kiếp sau hưởng?
Đáp:
Có
nhân
thì có quả, nhân mạnh thì quả mau đến, nhân yếu thì
quả chậm đến. Nhân mạnh có thể quả kiếp này đến, còn
nhân yếu có thể kiếp này, 10 kiếp sau, trăm, ngàn kiếp sau
đến không chừng!
Tham thiền không cầu quả báo, mà lại muốn ra ngoài quả báo, tại vì quả báo là nhân quả ở trong chiêm bao. Ngộ là nhảy ra ngoài chiêm bao. Như ở trong nhắm mắt chiêm bao thấy mình phát tài rất mừng, khi thức dậy không có. Ở trong chiêm bao phạm tội bị chính phủ chiêm bao bắt, tuyên bố tử hình thì rất sợ, khi thức dậy không thấy có tử hình.
Cho nên, Phật muốn mình ngộ, nghĩa chữ “Phật” là giác ngộ, tất cả chúng sanh nào mà giác ngộ là xong.
Hỏi:
Tại
sao
phải “Vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ” ?
Đáp:
Nếu
có
sở đắc, có sở cầu, có sở sợ thì có ta; có ta thì
không phá được ngã chấp, dẫu cho tu thành cũng thành tà
ma ngoại đạo. Nên chánh pháp phải phá ngã chấp, phá ngã
chấp thì phải thực hành không có cái ta. Không có cái ta
lấy gì cầu? Không có ta để ai đắc? Không có ta thì ai sợ?
Vì vậy, không có ta nên không có đắc, không có cầu, không
có sợ.
Hỏi:
Chữ
“không
biết” của Sư Phụ dạy là ý của Phật, ý của
Tổ cũng là nghĩa lý của các kinh, có phải không?
Đáp:
-Không
có
nghĩa lý.
-Vậy nghĩa lý của kinh chăng?
-Phải rồi.
-Cái “không biết” của Sư Phụ dạy là bát nhã vô tri chăng?
-Vô tri là nhất thiết tri. Nếu cái tri (biết) của bộ não gọi là vọng tri.. Còn biết của chân tâm không gọi là biết, cũng không có thể gọi là không biết. Tại biết và không biết là tương đối của bộ não. Biết của chân tâm thì biết của bộ não không biết được! Cho nên gọi là bát nhã vô tri, chứ không phải là không có cái biết. Biết chân tâm là automatic, bây giờ đang biết.
Như không có ánh sáng mặt trời là không phải không có mặt trời! Vì bị che khuất bởi mây đen hay quả đất. Cái biết chân tâm cũng vậy, nó không có ngưng biết, vì nó bị che khuất. Vậy nó bị cái gì che khuất? Là bị cái biết của bộ não che khuất. Nên Phật dạy mình ngưng cái biết của bộ não thì cái biết chân tâm hiện ra. Nhưng lúc cái biết chân tâm hiện ra thì bộ não hoàn toàn không biết, nên gọi là vô tri. Tức là không có cái tri của bộ não thì mới hiện cái tri bát nhã.
Hỏi:
Quán
Thế
Âm Bồ Tát có thể hoá trai hay gái được không?
Đáp:
Quán
Thế
Âm Bồ Tát không phải trai cũng không phải gái, mà Ngài
muốn hóa thứ gì cũng được, vì không phải cái gì! Không
những Quán Thế Âm Bồ Tát hóa được, mà ông cũng hóa được,
người nào cũng hóa được, tại bây giờ chưa hiện ra cái
sức đó.
Hỏi:
Người
tham
thiền khi lâm chung lại sợ thì lúc đó phải làm sao?
Đáp:
Nếu
hành
giả tham thiền giữ được cái không biết, đã không
biết làm sao có sợ hãi, biết sợ hãi là biết rồi, tức
là không có tham thiền.
Hỏi:
Tâm
vốn
bất sanh, bất diệt, bất khứ. Tại sao người ta chết
chỉ thay đổi cái khác, mà người ta lại quên tiền kiếp
của mình?
Đáp:
Vì
họ
vẫn còn ở trong chiêm bao. Nếu họ nhảy ra ngoài chiêm
bao, làm sao có tiền kiếp và có sanh tử? Sanh tử tiền kiếp,
hậu kiếp là ở trong chiêm bao mới có. Khi ngộ rồi tức
là nhảy ra ngoài chiêm bao thì mấy cái đó hoàn toàn kết
thúc.
Hỏi:
Lúc
ngồi
thiền nhắm mắt thì vọng tưởng nổi lên, mở mắt
thì không có vọng tưởng, lúc đi kinh hành nhắm mắt không
có vọng tưởng, mở mắt thì có vọng tưởng. Như vậy làm
sao trị?
Đáp:
Khỏi
cần
trị, cứ hỏi và nhìn giữ cái không biết, không biết
làm sao có vọng tưởng? Không biết thì không biết có vọng
tưởng. Biết không có vọng tưởng cũng là biết, biết có
vọng tưởng cũng là biết. Nếu hỏi và nhìn thì mấy cái
kia cũng giải quyết luôn.
Hỏi:
Kính
xin
Sư Phụ giảng người có thân trung ấm rồi đầu thai có
tay heo?
Đáp:
Người
này
ở Đài Loan tên là Ung bá Huy, khi ấy ông được 43 tuổi
quy y Pháp sư Nam Đình ở Đài Loan. Pháp sư Nam Đình thuyết
pháp muốn cho người ta tin nhân quả, mới giảng có một đệ
tử vừa quy y biết được 3 kiếp. Kiếp đầu tiên dạy học
ở thôn quê, rồi sau khi chết nhưng không biết mình chết,
cứ đi lang thang ở ngoài đường không biết đói bụng.
Ngày đó đang đi gặp gió bấc cảm thấy lạnh, đi ngang một nhà lớn cửa đang mở, mới vô trong nhà tránh gió. Trong nhà trống rỗng không có ai, trên vách tường có treo mười mấy chiếc áo lớn, người ấy lạnh quá nên ăn cắp một chiếc áo mặt vô thấy ấm rồi ngủ. Khi thức dậy, thấy mình nằm chung những con heo nhỏ với con heo mẹ, mới biết mình cũng là con heo nhỏ mới sanh ra thì biết mình đã đầu thai.
Người ấy cũng biết người ta nuôi heo lớn lên sẽ làm thịt, thấy khổ lắm, rồi không ăn không uống để tự tử; chủ nhà tưởng nó bệnh, nên đem sửa trộn với thuốc cho uống, nhưng không chịu uống, qua 7 ngày nó chết. Chết rồi khôi phục thân trung ấm, cũng đi lang thang ngoài đường gặp gió bấc, đi ngang nhà cũ, cũng vô trong nhà thấy áo treo, muốn lấy một cái để mặc, tay vừa đụng thì rút trở lại; người ấy tự nghĩ kỳ trước lấy, đã thành con heo rồi, bây giờ chẳng thà chết, chứ không ăn cắp nữa!
Vì ăn cắp là điều ác, không ăn cắp là điều thiện. Khi lạnh quá mới chết giấc, lúc thức tỉnh nghe người ta nói sanh con trai; người ấy thấy mình là đứa bé nằm chung với một bà mẹ, mới biết mình đã đầu thai thành con trai, nhưng có cái tay heo. Được mẹ chăm sóc nuôi nấng, lấy vải may túi che tay heo.
Pháp sư thuyết pháp kể có một đệ tử đầu thai có tay heo, các vị ra vô chùa cũng có thể gặp. Một bửa Ung Bá Huy ăn cơm chung một bàn, có người bới cơm giùm, ông không chịu; hai người lấy qua lấy lại, làm chiếc túi sút ra, rồi ông vội kéo chiếc túi lên lại che tay và dặn người kia rằng “đừng nói cho người ta biết”, các người khác cũng không để ý.
Khi chỉ có Ung Bá Huy với ông kia, ông kia mới hỏi “có phải Pháp sư Nam Đình nói người đầu thai có tay heo là ông phải không”? Ban đầu Ung Bá Huy không chịu nói.
Ông kia nói: Nếu ông không nói thì tôi cũng đã thấy rồi! Nói cho tôi biết, tôi không nói cho người khác biết!
Rồi Ung Bá Huy kể lại mà chuyện tôi vừa mới kể. Sau này ông được 62 tuổi, trị bệnh ở nhà thương Diêm Vương và chết ở nơi đó. Chuyện này ghi trong tuần báo của Đài Loan.
Hỏi:
Con
độc
long phá làng xóm, có 8 vị sư ngồi thiền định để
đuổi con độc long, nhưng con độc long không đi. Có một vị
sư giữ giới luật đến nói một tiếng thì nó đi. Vậy chỗ
giữ giới và thiền định cái nào mạnh hơn?
Đáp:
Chuyện
này
ở trong Hư Vân Niên Phổ, không phải 8 vị mà 500 vị
A La Hán đuổi nó không được. Nhưng một người trì giới
trong sạch, nói: “Mời ông rời khỏi chỗ này được không”?
Vì đuổi là đối địch rồi. Nên 500 vị A La Hán làm không
được. Tức là không có tương đối thì sức nó mạnh, bây
giờ tâm của ai cũng có sức mạnh đó.
Ông ấy trì giới là giữ vai trò của mình. Theo lực học của Phật Thích Ca thì mỗi mỗi đều giữ đúng vai trò của mình. Người thế gian, như cha phải giữ đúng vai trò của cha, mẹ phải giữ đúng vai trò của mẹ, con cái phải giữ đúng vai trò của con cái, chồng phải giữ đúng vai trò của chồng, vợ phải giữ đúng vai trò của vợ, mỗi mỗi chức nghiệp đều giữ đúng vai trò chức nghiệp của mình.
Người xuất gia, Sa Di phải giữ đúng vai trò Sa Di, Tỳ Kheo phải giữ đúng vai trò Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni phải giữ đúng vai trò của Tỳ Kheo Ni. Nhưng tôi gặp nhiều tu sĩ không giữ đúng vai trò của tu sĩ, vì tôi hỏi người Sa Di, 10 giới của Sa Di là gì? Mà Sa Di đó không biết, có biết cũng không đầy đủ. Nếu Sa Di mà không biết giới luật của Sa Di làm sao giữ đúng vai trò được? Còn Tỳ Kheo lại tệ nữa, không biết giới luật của Tỳ Kheo thì làm sao giữ đúng vai trò của Tỳ Kheo được?
Bây giờ, tôi có quở thì cũng không thể quở hết! Phần nhiều đều là như vậy. Đi thọ giới rồi chỉ biết mình có địa vị cao, mà không biết để giữ đúng vai trò! Như Kinh Lăng Nghiêm nói có 4 thứ tội địa ngục:
-Phỉ báng Đại thừa.
-Phá hoại luật nghi.
-Hư tiêu Tín thí (không đúng vai trò của mình mà thọ nhận của mười phương Tín thí).
-Lạm nhận cung kính (người ta cung kính lễ bái đâu phải vì mình mặc đồ tu và cạo đầu! Mình phải có bổn phận giữ đúng vai trò và cũng tự hỏi mình có tư cách gì? Để nhận sự lễ bái cung kính của người tại gia).
Có
một bài kệ:
Hạt
gạo
của Thí chủ,
Lớn
bằng
núi Tu di.
Nếu
không
tu giải thoát,
Mang
lông
đội sừng trả.
Vai trò còn giữ không đúng, làm sao tu giải thoát được? Thì tự nhiên phải đầu thai trâu ngựa hay mang lông để trả nợ cho Thí chủ. Muốn trả nợ đâu phải là trả nợ liền! Chết rồi đọa xuống địa ngục, khi khỏi địa ngục thì phải làm trâu ngựa trả nợ, nên hạt gạo của Thí chủ đâu phải dễ ăn! Nhưng các vị ấy không để ý, cứ tưởng mình cạo đầu mặc đồ tu là được!
Hỏi:
Đường
lối
thực hành tham Tổ Sư thiền là gì?
Đáp:
Nói
sơ
về cách thực hành tham thoại đầu và khán thoại đầu:
Thoại là lời nói, đầu là đầu tiên lời nói nghĩa là chưa
khởi ý niệm muốn nói mới được gọi là thoại đầu, hễ
khởi niệm muốn nói là thoại vỉ rồi. Tham là hỏi câu thoại
đầu để kích thích niệm không hiểu không biết, khán là
nhìn chỗ không biết, muốn xem chỗ không biết đó là cái
gì? Chỗ không biết thì không có chỗ, không có chỗ thì không
có mục tiêu để nhìn, nên nhìn mãi không thấy gì vẫn còn
không biết, chính cái không biết đó Thiền tông gọi là nghi
tình.
Hành
giả
tham thiền cứ đồng thời hỏi và nhìn đi song song để
giữ cái nghi tình, nghi tình này sẽ đưa hành giả đến thoại
đầu, thoại đầu tức là vô thủy vô minh cũng gọi là đầu
sào trăm thước, cũng là nguồn gốc của ý thức. Từ đầu
sào trăm thước tiến thêm một bước liền lìa ý thức, cái
sát na lìa ý thức đó gọi là kiến tánh thành Phật, tức
là trí bát nhã được hiện hành khắp không gian thời gian,
sự hiểu biết chẳng gì thiếu sót, giáo môn gọi là chánh
biến tri.
-Bây
giờ tôi lấy cây viết này để ví dụ, ở trên là thoại
đầu, ở dưới là thoại vỉ. Bắt đầu tham thiền là từ
thoại vỉ đi đến thoại đầu tức là rời thoại vỉ chưa
đến thoại đầu, đang đi ở giữa đường, đường này gọi
là đường đi ý thức tức là thức thứ 6.
Thức
thứ
6 gồm có hai mặt: Mặt biết là tu Như Lai thiền, còn
mặt không biết là tu Tổ Sư thiền. Tham thiền là hỏi và
nhìn như nói ở trên là tu Tổ Sư thiền. Tổ Sư thiền chỉ
cần nghi tình, nghi tình tức là không biết, nếu biết thì
không phải nghi tình là không có tham thiền.
Tham thiền do Phật Thích Ca thân truyền tức là dùng cái không biết của bộ óc để chấm dứt cái biết của bộ óc. Cái biết của bộ óc chia làm 3 bộ phận: Tìm hiểu biết, suy nghĩ biết và ghi nhớ biết.
Đầu tiên dùng cái không biết của bộ óc để chấm dứt tìm hiểu biết, rồi đến chấm dứt suy nghĩ biết, rồi đến chấm dứt ghi nhớ biết. Thói quen con người hay ham tìm hiểu, không những không chịu chấm dứt, lại dùng hiểu biết của bộ óc để tìm hiểu nghi tình, cứ sợ không có nghi tình, muốn biết có nghi tình. Muốn biết có nghi tình tức là biết rồi, biết thì không phải tham thiền.
Nếu giữ được nghi tình (không biết) thì không biết có nghi tình, nghi tình nhỏ hay nghi tình lớn đều không biết. Vì biết thì không phải nghi tình. Nếu có nghi tình mà để cho bộ óc biết được thì đã biết chứ không phải chấm dứt cái biết. Mục đích là nhờ cái không biết của bộ óc để chấm dứt cái biết của bộ óc.
Sau cùng đến đầu sào trăm thước tức là 3 cái biết đã chấm dứt. Thoại đầu gọi là vô thủy vô minh, nguồn gốc ý thức và Thiền tông cũng gọi là đầu sào trăm thước. Chỗ thoại đầu thì chưa kiến tánh, vì còn cái không biết của bộ óc. Từ chỗ thoại đầu tiến thêm một bước nữa, ngay đó liền lìa ý thức, biết và không biết của bộ óc đều sạch thì cái biết của Phật tánh hiện lên gọi là chánh biến tri khắp không gian khắp thời gian.
Khắp
không gian thì không có chỗ để chỉ, khắp thời gian thì
không có lúc để chỉ. Cái biết của bộ óc không có khắp
thời gian nên ngủ mê không biết, chết giấc không biết,
chết thật không biết. Còn cái biết Phật tánh khắp không
gian khắp thời gian, khắp thời gian thì ngủ mê vẫn biết,
chết giấc cũng biết, chết thật cũng biết.
Nếu
chết
thật không biết tức là lúc chết thì cái biết
bị gián đoạn, không phải cái biết của Phật tánh là luôn
luôn khắp không gian khắp thời gian không bao giờ gián đoạn.
Nhưng bây giờ nói cho bộ óc biết được nên mới nói là
biết. Vì nói biết thì phải có không biết để đối đãi.
Thực tế không thể nói là biết và không biết, vì cái biết
Phật tánh không có đối đãi, không có tương đối, nên không
thể kiến lập biết và không biết.
Hành giả tham thiền cứ hỏi và nhìn, như hỏi “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” là kích thích cái niệm không biết, rồi nhìn chỗ không biết, xem chỗ không biết đó là gì, nhưng chỗ không biết thì không có chỗ, không có chỗ thì không có mục tiêu để nhìn, nên nhìn không thấy gì vẫn còn không biết.
Lúc hỏi cũng là lúc nhìn, hỏi và nhìn là hai cái song song, chứ không phải hỏi rồi mới nhìn, tức là vừa hỏi vừa nhìn, hỏi là khởi lên niệm không biết và nhìn chỗ không biết, không biết thì không có chỗ tức là không có mục tiêu, nên hỏi và nhìn là giữ niệm không biết và kéo dài niệm không biết. Bất cứ câu thoại đầu nào cũng là vậy, chứ không không phải những người muốn tìm hiểu đáp án câu thoại đầu là sai lầm lớn. Vậy tham thiền chỉ cần giữ không biết là đủ rồi.
Những câu thoại đầu như: Khi chưa có trời đất ta là gì? Muôn pháp về một, một về chỗ nào? Khi cha mẹ chưa sanh, mặt mũi bổn lai của ta ra sao?… Tức là muôn ngàn câu thoại mục đích là “không biết”, chứ không phải câu thoại đầu này khác với câu thoại đầu kia! Câu thoại đầu nào cũng giống nhau là kích thích “không biết” mà thôi.
Hỏi:
Khi
con
tham thoại đầu không nghĩ gì hết, như thế có phải nghi
tình không?
Đáp:
Biết
không
có nghĩ là nghĩ rồi.
-Khi con tham thoại đầu, con mắt con nhìn ra cảnh vật bên ngoài vẫn thấy, vậy như thế nào?
-Như vậy sao gọi là tham thiền? Không biết là không thấy làm sao thấy được? Thấy tức là biết rồi.
-Nếu không thấy làm sao đi đứng tới lui?
-Không đi đứng tới lui được thì không đi đứng tới lui. Bây giờ tôi hỏi ông: Ông biết đói bụng không?
-Dạ, biết.
-Ông
thấy cái bụng không?
-Dạ,
không.
-Không biết sao thấy đói bụng?
-Tự
nhiên đói là con biết.
-Phải
rồi!
Khỏi cần thấy cũng đi được mà! Phải không?
-Dạ.
-Vì ông không có thấy bụng mà biết đói bụng.
-Dạ.
-Hiểu chưa?
-Dạ.
-Được rồi.
-Cảm ơn Hòa thượng.
Hỏi:
Khi
con
đề lên câu thoại đầu thì con nhìn chỗ đó không biết
gì hết, nhưng vẫn có cái biết của cái không biết, nên
con thấy mình biết rõ ràng thấy chỗ mình không biết đó,
rồi đề tiếp câu thoại đầu nữa thì mình vẫn không biết,
hai niệm vẫn không biết thì con có một ý tưởng làm sao
thấy được tự tánh là cái gì? Từ chỗ không biết đó
con mới chăm hẩm làm sao thấy được chỗ tự tánh? Mà trước
sau đều không thấy, thành ra con thấy rất mệt mỏi và có
lúc rất đau đầu, con không biết mình rớt vào chỗ nào?
Đáp:
Như
thế
là sai lầm lớn, vì dùng cái biết tìm hiểu cái không
biết. Bây giờ biết cái không biết cũng là biết. Nếu không
biết làm sao biết mình biết cái không biết! Còn thật không
biết làm sao biết cái biết và biết cái không biết!
Không những không chịu chấm dứt, mà lại dùng cái biết đó tìm hiểu thêm tức là tìm hiểu cái nghi tình để biết cái nghi tình. Bây giờ cứ hỏi và nhìn để chấm dứt tất cả tìm hiểu, suy nghĩ, ghi nhớ giống như người khờ ngốc không biết gì mới đúng. Còn nói biết rõ ràng có nghi tình là không đúng.
Hỏi:
Ngay đó
nhìn thẳng vào coi tự tánh là cái gì? Không có qua câu
thoại đầu, nhưng thật sự con cũng không biết là cái gì?
Kính xin Sư Phụ khai thị?
Đáp:
Thoại
đầu
là không có ý niệm. Đã có ý niệm không biết thì
khởi ý niệm rồi. Bây giờ chưa đến thoại đầu, phải
chấm dứt 3 thứ biết (tìm hiểu, suy nghĩ, ghi nhớ) mới đến
thoại đầu. Không chịu chấm dứt cái biết, mà lại tìm
hiểu nghi tình làm sao đến thoại đầu! Nói tham thoại đầu,
khán thoại đầu, kỳ thật còn cách rất xa thoại đầu.
Vì mục đích muốn đến thoại đầu nên mới nói là tham thoại đầu, khán thoại đầu. Hỏi câu thoại chứ không phải hỏi thoại đầu. Ba thứ biết được chấm dứt thì giống như người khờ ngốc không biết gì hết, làm sao biết được cái không biết!
Hỏi:
Nếu
như
vậy, chỗ này con thấy không có câu thoại đầu thứ
hai, vì khi mình đề câu thoại vỉ?
Đáp:
Làm
sao
có thoại đầu ra được? Thoại đầu ra là có ý niệm
rồi. Vì ông cứ muốn dùng cái biết, muốn có câu thoại
đầu ra thì làm sao gọi là thoại đầu? Bây giờ hỏi là
hỏi câu thoại chứ không phải hỏi thoại đầu! Thoại đầu
chưa đến. Khi đến thoại đầu thì ngày đêm không biết
gì cả. Tức là không có một ý niệm nào nổi lên.
-Như vậy, lúc đó câu thoại vỉ cũng không phải không?
-Làm sao có thoại vỉ! Lúc bắt đầu tham là đã rời thoại vỉ rồi, như vừa rồi tôi đã dùng cây viết thí dụ. Bắt đầu tham là rời khỏi thoại vỉ tức là đang đi ở giữa đường của thoại vỉ và thoại đầu. Vì ông đuổi theo danh từ nên mới nói như vậy.
Hỏi:
Người
tu
không cầu phước báo, ngày nào đó mình chưa thực sự
ngộ đạo, chưa ra khỏi chiêm bao thì ra sao?
Đáp:
Bây
giờ
cái thật sự là cái gì? Cái thật sự của ông là cái
biết của bộ não, nếu tất cả biết bộ não của ông dẹp
hết thì không có thật sự hay không có không thật sự gì
hết! Vì ông cứ dùng cái biết của bộ não để cho là cái
này cho là cái kia, cho là thật sự cho là phải biết, cho là
phải có mục đích, phải đi đến chỗ mục đích, phải đi
đến chỗ kiến tánh.
Tôi dạy dẹp hết những cái biết đó, muốn dẹp thì phải giữ cái không biết. Ông cứ hỏi và nhìn cứ giữ không biết đó thì sẽ automatic dẹp những thứ biết đó. Ông không những tự dẹp mà lại kéo dài thêm, còn muốn dùng cái biết mà tìm hiểu cái này cái kia, muốn cho có cái thật sự mới được. Vậy là sai lầm lớn.
Hỏi:
Con
đề
khởi câu thoại đầu lên là cần thắc mắc để có
nghi tình hay là cần tập trung tư tưởng?
Đáp:
Đừng
có
tập trung tư tưởng, đừng có cố gắng, chỉ cần hỏi
và nhìn giữ cái không biết. Không biết thì không biết tập
trung, không biết cố gắng, cũng như người khờ ngốc không
biết gì hết là được.
Đơn giản chừng nào tốt chừng nấy, ít phí sức chừng nào tốt chừng nấy. Đó là lời của chư Tổ dạy. Nếu tập trung tư tưởng là sai lầm, chỉ có hỏi và thắc mắc, nhìn chỗ không biết. Hỏi với nhìn, hai cái đi song song.
Hỏi:
Bản
thân
con ăn chay, nhưng mấy đứa con không chịu ăn chay, thành
ra mỗi ngày phải đi chợ nấu đồ mặn cho chúng ăn. Như
vậy con có bị nhân quả gì không?
Đáp:
Ở
trong gia đình cô có quyền không? Nếu con có quyền hơn thì
được, nếu mà cô có quyền hơn con thì cô phải chịu trách
nhiệm nhân quả đó. Tức là ăn cục thịt phải trả cục
thịt, giết một mạng phải trả một mạng. Đó là nhân quả.
Vì cô thương con nên chìu con thì phải chịu trách nhiệm.
-Con có khuyến khích ăn chay, nhưng nó nói mẹ ăn chay, chứ đừng bảo con ăn chay?
- Vì nó không nghe rồi cô phải giết hại chúng sanh để cho con ăn thì cô phải trả nợ lại cho chúng sanh.
Hỏi:
Nếu
dùng
cái không biết để tu thì cái gì cũng không biết nên
không làm được cái gì, vậy làm sao sống?
Đáp:
(Muốn
kiến
lập………………………………… khác nhau là vậy) từ trang 3 đến trang 6.
Mình chỉ giữ đúng vai trò của mình, đói bụng thì ăn, lạnh mặc thêm áo, nực cởi bớt ra. Tham thiền giữ đúng vai trò tham thiền tức là cứ hỏi và nhìn. Nếu lúc làm việc, hỏi và nhìn không được thì phải ngưng. Lúc không có làm việc mới tập hỏi và nhìn, tập đến khi quen trong lúc làm việc nó tự động hỏi và nhìn được.
Hỏi:
Con
đã
tham câu “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” Rồi
con thấy câu “chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng
phải vật là cái gì?” Con thấy câu này có nghi tình hơn
câu trên, như vậy con có nên đổi câu thoại đầu để tham
không?
Đáp:
Tôi
hỏi
ông: Khi chưa có trời đất ông là cái gì? Biết không?
-Không biết.
-Không biết là đúng rồi, như vậy cần gì đổi nữa! Không biết thì giữ cái không biết và nhìn cái không biết đó thì cái kia cũng nhìn cái không biết vậy!
-Con thấy câu trên dễ nhìn hơn?
-Nếu có dễ nhìn và khó nhìn thì khác rồi! Cái không biết làm sao có khác được? Biết mới có khác.
Hỏi:
Khi
con
tham câu “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” lúc con
ngủ có chiêm bao thì hiện cảnh giới, khi tham câu “chẳng
phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật, là cái gì?”
Lúc ngủ không còn chiêm bao. Vậy như thế nào?
Đáp:
Đó
là
còn để ý cái biết, còn ham cái biết. Bây giờ cứ giữ
không biết là được rồi.
Hỏi:
Thế
nào
sám hối thập tự mười phương Tăng?
Đáp:
Hỏi
câu
thoại đầu và giữ niệm không hiểu không biết là chân
sám hối. Vì thoại đầu là tâm niệm không nổi lên thì vọng
tâm được ngưng hoạt động. Cho nên, có câu kệ:
Tội từ tâm khởi lấy tâm sám,
Tâm nếu diệt rồi, tội liền tiêu.
Tội tiêu tâm diệt,cả hai đều không,
Aáy mới thật là chân sám hối.
Hỏi:
Tại
sao
phải tu? Sanh tử là gì?
Đáp:
Bây
giờ
hỏi và nhìn, đến thoại đầu rồi kiến tánh thì tất
cả các câu hỏi đều giải quyết hết. Tức là biết sanh
tử là gì, tất cả đều biết, cái biết đó không có thiếu
sót. Còn bây giờ cứ dùng bộ óc đi tìm hiểu là sai lầm,
tham thiền thì muốn ngưng cái biết của bộ óc. Tất cả
phiền não đều do suy nghĩ sanh ra. Nếu giữ được cái không
biết thì phiền não cũng ngưng.
Như có cô tên Phương, ngày đêm nhức đầu không ăn, ngủ được từ năm này sang năm khác làm cơ thể ốm yếu. Rồi chừng biết tham thiền là hỏi và nhìn cứ giữ cái không biết, khi giữ được cái không biết thì nhức đầu tự ngưng. Khi ngưng tham thiền thì nhức trở lại, vì có biết. Cho nên, cô ấy phải tham thiền liên tục thì nhức đầu mới ngưng; sau này ăn được ngủ được mới mập lại, rồi nhức đầu hết hẳn luôn.
Tất cả phiền não cũng vậy, tại biết mới có. Nếu không biết làm sao biết có phiền não, có khổ? Tu là cắt dứt khổ, không những cắt dứt khổ hiện tiền mà vĩnh viễn khổ về sau cũng không còn nữa.
Hỏi:
Ngồi
tham
thiền, con cảm thấy nghẹt thở mà tham một hồi thì
con không biết gì nữa. Như vậy có đúng công phu không?
Đáp:
Tham
thiền
có không hiểu không biết là được rồi, nếu còn
biết thì không được.
Hỏi:
Kính
xin
Sư Phụ kể lại chuyện của Huỳnh Đình Kiên?
Đáp:
Đời
nhà
Đường nước Trung Quốc, có Huỳnh Đình Kiên 26 tuổi
thi đậu tiến sĩ làm quan. Ngày sanh nhật của ông tổ chức
tại Dinh Huyện. Lúc ngủ trưa, ông thấy chiêm bao, một mình
đi ra cửa sau theo con đường thôn quê, mà không có vệ binh
đi theo, gặp một ngôi nhà có một bà già mời vô ăn cơm,
ăn xong rồi trở về thì thức dậy nghĩ lại giống như thật
vậy. Như mùi đồ ăn trên miệng còn lại giống như mới
ăn xong.
Ở trong lòng nghi chuyện vừa rồi có phải như vậy không? Nên một mình không cho ai biết, không có vệ binh đi theo, đi theo con đường mà thấy trong chiêm bao. Thật cũng có con đường đó và cũng gặp bà già đó, mới hỏi bà già: Hôm nay nhà bà có làm gì không?
-Bà già nói: Có.
-Huỳnh Đình Kiên hỏi: Làm việc gì vậy?
-Bà
già nói: Đám giỗ con gái, con gái tôi đã chết được 26
năm. Lúc con gái tôi còn sống không có lấy chồng, tu ở nhà;
trước khi lâm chung, nó có cái rương tự nó khóa lại, ở
trong đó để thứ gì cũng không biết rồi nói với tôi, kiếp
sau sẽ lại mở cái rương này.
Huỳnh
Đình
Kiên nghe đến chỗ này thì nhớ lại kiếp trước của
mình là con gái của bà già này.
Huỳnh Đình Kiên hỏi bà già: Chìa khóa bà có biết để đâu không?
Bà già nói: Không biết.
Huỳnh Đình Kiên nói: Tôi biết, rồi tự ông đi lấy chìa khóa mở cái rương ra thì ở trong đó đều là văn chương, văn bằng tú tài, văn bằng cử nhân, văn bằng tiến sĩ giống như văn bằng của ông. Bà già chỉ có một mình nên Huỳnh Đình Kiên mới đem bà già về nhà của ông nuôi.
Huỳnh Đình Kiên làm chức Thượng thư bằng chức Bộ trưởng bây giờ. Ở trong từ điển Từ Nguyên có ghi.
Người có tu mới có cảm ứng như vậy, còn người không có tu thì đâu biết. Nhưng ông Huỳnh Đình Kiên cũng có nhân duyên gặp Thiền sư Huỳnh Long được kiến tánh.
Hỏi:
Có
phải
Ngài Ma Ha Ca Diếp chưa viên tịch còn nhập định ở
núi Kê Túc chờ Phật Di Lặc ra đời không?
Đáp:
Kiến
tánh
rồi biết vốn không có sanh tử, không có sanh tử làm
sao có viên tịch hay không viên tịch! Vì chấp có sanh tử
nên mới thấy có viên tịch. Tâm như hư không vô sở hữu
(trống rỗng), trống rỗng thì không có trói buộc nên gọi
là giải thoát, chứ không phải bị buộc rồi mở trói, mới
gọi là giải thoát.
Vốn không bị trói buộc là không có sanh tử, ngộ được không có sanh tử tức là liễu thoát sanh tử.
Hỏi:
Những
tội
ác mà đời trước đã làm như: Giết người, cướp
của, lường gạt, hãm hại người cô thế thì người Phật
tử phải làm sao cho hết các tội trên, để việc tu hành
khỏi bị chướng ngại, chúng con có thể sám hối hồng danh
trước bàn Phật không?
Đáp:
Sám
hối
không có thể diệt tội được! Theo giới luật nhà Phật,
sám hối chỉ diệt được tội phá giới, chứ không có diệt
được tội nhân quả. Muốn hết tội nhân quả thì phải
diệt cái tâm, tâm diệt thì tội liền tiêu.
Có
bài kệ:
Tội
từ
tâm khởi đem tâm sám,
Tâm
nếu
diệt rồi tội cũng tiêu.
Tội
tiêu
tâm diệt, cả đều không,
Ấy
mới
gọi là chơn sám hối.
Muốn diệt cái tâm nên phải tu, như tham thiền đến kiến tánh thì bất cứ tội nặng bao nhiêu đều tiêu hết. Tại sao? Vì tất cả tội đều ở trong việc chiêm bao; lúc kiến tánh như ở trong chiêm bao thức tỉnh tức là đã lìa khỏi chiêm bao, thì tất cả việc làm ở trong chiêm bao đều không còn nữa. Như nhắm mắt chiêm bao, thấy phát tài rất mừng, khi thức tỉnh tìm đồng xu không có. Tạo tội cũng vậy, thức tỉnh liền hết. Muốn ở trong chiêm bao thức tỉnh thì phải tu kiến tánh thành Phật.
Hai thứ chiêm bao do duy thức biến hiện:
1-Độc đầu ý thức biến hiện nhắm mắt chiêm bao:
Ban đêm thân thể của chúng ta nằm trên giường nhắm mắt ngủ say, tiền ngũ thức (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân) đều ngưng nghĩ, duy chỉ có một mình thức thứ 6 hoạt động, biến hiện thân thể và thế giới trong chiêm bao.
Người trong chiêm bao tiếp xúc mọi vật trong chiêm bao đều có cảm giác là thật; tiếp xúc nóng biết nóng, lạnh biết lạnh, đủ thứ cảm giác buồn vui, cũng thấy đau khi bị người đánh… Giả sử lúc ấy có một vị thiện tri thức bảo người trong chiêm bao rằng: “Tất cả những gì mà ông tiếp xúc đều chẳng có thật, kể cả thân thể của ông cũng chẳng phải thật”, thì đương nhiên người trong chiêm bao chẳng chịu tin mà còn nói: “Ông nói chẳng thật, nhưng tại sao khi tôi tiếp xúc lại có cảm giác là có thật chất? Nếu ông nói cơ thể của tôi chẳng phải thật thì tại sao khi bị đánh lại cảm thấy đau? Giả thuyết của ông dù có lý nhưng tôi chẳng thể tin nổi”.
Khi người trong chiêm bao ngủ đã rồi tự mình thức giấc (Duy Thức Học gọi là Tự chứng phần), lúc ấy tự mình chứng tỏ thế giới và người trong chiêm bao hóa ra đều không phải thật, vì thế giới và người trong chiêm bao đều biến mất, chỉ còn thân thể nằm trên giường mà thôi. Aáy là nhắm mắt chiêm bao.
2-Đồng thời ý thức biến hiện mở mắt chiêm bao:
Bấy giờ, tiền ngũ thức và ý thức (thức thứ 6) đều đang hoạt động, ví như nhĩ thức nghe tiếng nhưng không biết tiếng gì, là tiếng người hay tiếng chim kêu, chó sủa. Không biết được, phải nhờ thức thứ 6 đồng thời khởi lên mới có thể phân biệt là tiếng người già, trẻ, nam nữ… Nếu riêng chỉ có nhĩ thức thì chỉ nghe được âm thanh nhưng không thể phân biệt. Nếu chỉ có thức thứ 6 thì lại chẳng nghe được âm thanh, cho nên hai thức phải đồng thời khởi lên mới biến hiện mở mắt chiêm bao.
Mọi người chỉ cho nhắm mắt chiêm bao là chiêm bao, còn mở mắt chiêm bao không phải chiêm bao. Bởi do nhắm mắt chiêm bao có thể tự thức tỉnh và tự chứng minh được, còn mở mắt chiêm bao thì chẳng thể tự thức tỉnh; nếu chưa giác ngộ thì vẫn còn nằm trong chiêm bao. Mặc dù Phật Thích Ca đã giải thích rất kỹ càng trong kinh điển như kinh Lăng Nghiêm, kinh Lăng Già… nói hai thứ chiêm bao đều là tâm tạo, tức là “nhất thiết duy tâm tạo”. Nhưng đối với người chưa thức tỉnh thì họ vẫn không tin vì còn nằm trong chiêm bao, cũng như người ở trong nhắm mắt chiêm bao vậy, phải đợi khi tỉnh giấc thì mới có thể tự chứng minh được. Duy Thức học gọi là“được tự chứng phần”, cũng gọi là kiến tánh.
Một cái thức biến hiện là do tâm tạo, hai cái thức đồng thời biến hiện cũng do tâm tạo. Do tâm tạo thì chẳng phải thật, chẳng phải thật nên mới gọi là chiêm bao, ấy là “hai thứ chiêm bao do Duy Thức biến hiện” vậy.
Bởi do tâm thức của chúng ta ngày đêm hoạt động chẳng ngừng, dĩ nhiên phải biến hiện hai thứ chiêm bao kể trên, cũng như cơ thể của chúng ta chẳng ngừng xoay chuyển ắt sẽ thấy những cảnh vật xung quanh cũng xoay chuyển theo. Cảnh vật xoay chuyển ví như sanh tử luân hồi, cơ thể xoay chuyển ví như tâm thức hoạt động, hễ tâm thức ngưng hoạt động thì sanh tử luân hồi cũng ngưng hoạt động, ấy gọi là Niết bàn, cũng là từ mở mắt chiêm bao thức tỉnh, Phật pháp gọi là Giác ngộ (chứng ngộ), cũng gọi là kiến tánh thành Phật.
Nếu chúng ta hiểu được hai thứ chiêm bao đều do Duy Thức biến hiện thì đối với câu “vô vô minh, diệc vô vô minh tận. Nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận” của Bát Nhã Tâm Kinh tự nhiên tin chắc chẳng còn nghi ngờ vậy.
-Tức là mình cũng ở trong mở mắt chiêm bao, vì nhắm mắt chiêm bao tự thức tỉnh được nên tự chứng tỏ biết là chiêm bao, còn mở mắt chiêm bao không bao giờ tự thức tỉnh được, phải tu hành đến kiến tánh mới thức tỉnh. Bây giờ đang chiêm bao nên Phật Thích Ca nói “vô vô minh” nghĩa là không có vô minh, “vô lão tử” nghĩa là không có già chết. Chùa nào đều có tụng Bát Nhã Tâm Kinh, mỗi ngày cũng mấy lần. Nhưng tụng cứ tụng mà tin thì không tin. Tại sao? Vì mình còn ở trong chiêm bao chưa thức tỉnh. Như tôi đã già rồi sau này sẽ chết, sao Phật nói không có già chết, làm sao tin nổi?
Thức tỉnh rồi mới chứng tỏ được lời nói của Phật nói “không có vô minh, không có già chết”, còn chưa thức tỉnh dù Phật nói có lý cách mấy cũng không có tin. Nhiều người nói tôi tin Phật, sự thật không có tin. Kinh cứ tụng, nhưng kinh nói gì mà không tin.
Hỏi:
Ngài
Mục
Kiền Liên đã đắc quả A La Hán được tâm thanh tịnh
có thần thông, mà lại có nhân bất thiện trong tiền kiếp
là nghe lời vợ đưa cha mẹ vào rừng bỏ, để rồi Ngài
phải bị quả báo bị ngoại đạo đánh chết. Tại sao vậy?
Đáp:
Nhắm
mắt
chiêm bao và mở mắt chiêm bao đều là hai thứ chiêm
bao. Chiêm bao là chuyện không có thật, thức tỉnh thì hết;
chư Phật chư Tổ chỉ cần muốn mình giác ngộ, tức là đúng
với nghĩa chữ “Phật”. Nghĩa chữ “Phật” là giác ngộ,
tiếng Ấn Độ gọi là Phật Đà. Nhưng người ta quên nghĩa
giác ngộ, cứ cho Phật là một thần linh. Người nào giác
ngộ người ấy là Phật.
Mình
không
tu để giác ngộ mà cứ tụng lời của Phật. Như ngày
xưa tôi dạy học, bắt học trò trả bài; tôi đâu thích nghe
học trò trả bài! Tôi rất ngán, tại những bài đó tôi đã
dạy chúng mà! Vì tôi ăn lương của chúng nên tôi phải ráng
nghe chúng trả bài. Như lời kinh là Phật dạy mình, đâu phải
Phật muốn mình đọc cho Phật nghe! Nhưng lại tụng cho Phật
nghe cho là có công đức. Đó là rất mâu thuẩn.
Phật dạy là muốn mình thực hành, giáo môn là đang tụng tức đang thiền quán tưởng, gọi là tùy văn quán tưởng. Nhưng bây giờ thấy không có như vậy, chỉ là tụng nhanh cho mau hết kinh. Như ngài Đế Nhàn tụng kinh mỗi ngày 3 thời, mỗi thời 2 giờ. Vì vừa tụng vừa quán tưởng. Nếu ở chùa có 30 Tăng thì phải đủ 30 Tăng tụng kinh, vì tụng kinh là tu, đâu phải tụng cho Phật nghe? Cho nên tụng không đủ 2 giờ thì Ngài quở là làm biếng.
Hỏi:
Bài
kệ:
Tội từ tâm khởi đem tâm sám,
Tâm được tịnh rồi, tội liền tiêu.
Vậy,
“Tâm
được tịnh rồi, tội liền tiêu”. Câu này ý nghĩa
như nào?
Đáp:
Không
phải
tâm tịnh! Mà tâm diệt mới được, chứ không phải
tâm tịnh. Câu này dịch sai nguyên văn chữ Hán.
Hỏi:
Người
tham
thiền có cần giữ chặt chẻ giới luật không? Vì đâu
phải lúc nào cũng thiền quán mãi mãi?
Đáp:
Đương
nhiên
như vậy. Bất cứ pháp môn nào đều lấy giới luật
làm căn bản. Thiền tông cũng vậy. Như Sa Di phải giữ vai
trò của Sa Di, Tỳ Kheo phải giữ vai trò của Tỳ Kheo, chứ
không phải tu thiền mà không giữ giới. Mặc dầu có thiền
giới, nhưng mình có được 24 giờ thiền giới không? Nếu
mình không được 24 giờ thiền giới thì lúc bị gián đoạn
công phu, nên lúc đó có thể phạm giới.
Trong Phật pháp có 7 chúng: Chúng tại gia (Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di) và chúng xuất gia (Sa Di, Sa Di Ni, Thức Xoa, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni) đều lấy giới luật làm căn bản, bất cứ tông phái nào cũng theo giới luật làm căn bản.
Hỏi:
Ngài
Mục
Kiền Liên chứng được 6 pháp thần thông, nhưng cứu
được mẹ ra khỏi cõi ngạ quỷ, phải nhờ đến Phật, Phật
dạy làm thức ăn và sắm những đồ cần dùng cúng dường
chư Tăng, nhờ chư Tăng chú nguyện để cho mẹ của Ngài được
vãng sanh về cõi trời. Đó có phải là một hình thức cầu
siêu không?
Đáp:
Cầu
siêu
như thế mới là chánh thức, mặc dầu Ngài Mục Kiền
Liên đã chứng quả A La Hán có thần thông, nhưng sức tâm
của Ngài chỉ có một mình thì rất yếu không đủ ảnh hưởng
tâm của người mẹ. Cho nên, Phật dạy trai Tăng cho 1250 Tỳ
Kheo A La Hán. Sức tâm của 1250 Tỳ Kheo A La Hán hợp lại thì
sức tâm mới mạnh, ảnh hưởng được tâm của người mẹ,
tâm của người mẹ chỉ thay đổi một chút thì người mẹ
lìa được khỏi cõi ngạ quỷ.
Thân trung ấm, nếu thiện nhiều hơn ác thì sanh thiện đạo, nếu ác nhiều thì sanh ác đạo, nếu thiện và ác bằng nhau chưa phân biệt sanh thiện đạo hay sanh ác đạo mới có thân trung ấm. Thân trung ấm cứ 7 ngày một sanh tử, nên người ta 7 ngày làm tuần một lần, làm 7 lần. Nếu 7 ngày chưa quyết định sanh về bên thiện đạo hay ác đạo thì thêm 7 ngày nữa, cho đến cuối 7 lần sẽ quyết định đầu thai.
Mẹ của Ngài Mục Kiền Liên không phải vãng sanh về cõi trời! Mà chỉ lìa khỏi đạo ngạ quỷ, tức là khỏi tam ác đạo, sanh tâm thiện đạo, là tùy theo tâm của người mẹ được chuyển biến đến mức độ nào. Nếu tâm của người mẹ không sửa được thì không bao giờ người khác cứu được.
Như
khí công ở Trung Quốc nhiều người hợp lại thì sức đó
rất mạnh. Mê tín cũng có hiệu ứng mê tín, nếu sức tâm
nhiều người hợp lại thì cũng mạnh hơn từ lực vật thường.
Bất cứ vật chất gì đều cũng có từ trường phát ra từ
lực mà tùy theo mật mã của cái ấy phát ra làn sóng tin tức.
Người kiến tánh có sức của tâm mạnh không thể tưởng
tượng được. Còn người chưa kiến tánh thì sức mạnh của
tâm bị không gian thời gian hạn chế, có mạnh cũng ở mức
độ nào đó thôi.
Cho
nên,
Phật dạy Ngài Mục Kiền Liên trai Tăng là muốn nhiều
Tăng hợp lại, mà các vị Tăng ấy gồm có 1250 vị đều
chứng A La Hán, nên sức mạnh tâm của các vị ấy mới ảnh
hưởng tâm của mẹ Ngài Mục Kiền Liên để sửa lại, chứ
không phải có công đức. Cho lấy công đức là sai lầm. Không
có công đức gì hết, cứ cho tụng kinh là có công đức,
việc này không thể có. Tất cả đều do sức của tâm.
Từ
lực
phát từ vật chất thì yếu, từ lực phát từ phi vật
chất tức là chân tâm của mình thì mạnh. Như vật chất,
tốc độ nhanh nhất là ánh sáng, ánh sáng thì ở trong vật
chất là cao nhất. Nhưng so với phi vật chất thì nó thấp
nhất. Nên ánh sáng đi 10 triệu năm mới đến, tâm mình một
niệm đến. Tâm mình một niệm đến tức là người đã kiến
tánh. Tâm mình bị cái biết bộ não che khuất thì không được
như thế.
Hỏi:
Theo
như
kinh Địa Tạng và các kinh khác dạy: Khi có người thân
chết, Phật tử đến chùa thỉnh chư Tăng tụng kinh cầu
siêu 7 tuần thất. Chúng con có người nhà mất phải làm như
vậy không?
Đáp:
Nếu
tụng
kinh cầu an, cầu siêu được thì không có nhân quả,
tức là chỉ cần con cháu có tiền để mời người ta tụng
kinh thì làm ác cũng đâu có sao? Bởi vì tụng kinh siêu được!
Nếu cầu được thì phá hoại nhân quả, phá hoại nhân quả
thì phá hoại Phật pháp. Như Mục Kiền Liên chứng quả A
La Hán có thần thông hóa bát cơm để cho mẹ ăn, nhưng mẹ
không ăn được, huống mình là người thường, giữ giới
còn không có trong sạch nữa.
Như người ta tụng chú có công hiệu không phải ở nơi chú, nếu ở trong chú có công hiệu thì ai tụng chú cũng có công hiệu. Người giữ giới trong sạch tụng chú mới có công hiệu, tại do sức của tâm, chứ không phải do sức của chú. Nên nói “tất cả do tâm tạo” là vậy.
Hỏi:
Trong
gia
đình có chuyện chết trùng là sao? Nếu có chuyện này
thì chúng con phải làm sao để khỏi bị chết nữa?
Đáp:
Đó
là
không tin nhân quả, nếu tin nhân quả thì khỏi hỏi câu
này. Phật tử còn không tin nhân quả thì những người khác
trong xã hội làm sao tin nhân quả được? Kỳ thật, mỗi thứ
gì đều có trước nhân sau quả. Chính trị, quân sự, kinh
tế đều có trước nhân sau quả. Như bão lụt là do đốn
cây phá rừng. Ở trong thiên nhiên đều có nhân quả, mà ở
trong Phật pháp làm sao không có nhân quả?
Hỏi:
Người
tu
trì danh niệm Phật có phát đại nguyện hằng ngày, rủi
ro ra đường bị xe đụng chết bất ngờ hay bị kẻ cướp
giết chết, tinh thần bấn loạn trong những giây phút cuối
cuộc đời. Vậy sau khi chết có được vãng sanh về cõi Tịnh
Độ không?
Đáp:
Không
được
vãng sanh, vì người đó tu không đúng tông chỉ Tịnh
Độ. Nếu chỉ có niệm Phật thì không phải Tịnh độ. Tông
chỉ của Tịnh Độ là tín, nguyện, hạnh. Quyết được vãng
sanh là do cái nguyện. Cũng như các vị ở chùa tụng kinh A
Di Đà, đã phát nguyện thì đã được vãng sanh, đang phát
nguyện thì đang được vãng sanh, tức là phải có nguyện.
Cái nguyện đó là tiểu nguyện và đại nguyện. Nếu phát
tiểu nguyện thì không được vãng sanh, vì không hợp nhân
quả. Phải phát đại nguyện, không phải chỉ miệng nói tâm
nghĩ là đủ, phải thực hành cái nguyện của mình phát.
Trước
kia
tôi hoằng dương Tịnh Độ mười mấy năm, không thấy
một người tu đúng tông chỉ Tịnh Độ. Duy nhất tôi chỉ
gặp được một người, nhưng lúc ấy tôi đã hoằng thiền
rồi. Người đó là ông chủ tiệm vàng ở Thị Nghè, y thông
suốt giáo lý cũng có phát đại nguyện. Lúc đó tôi ở chùa
Từ Aân, mục đích y đến vấn nạn. Tín, nguyện, hạnh, y
đều biết hết. Nhưng thiếu không có thực hành đại nguyện
của y phát, mặc dầu y có miệng nói tâm nghĩ mỗi ngày.
Không
có thực hành đại nguyện là nguyện suông nguyện giả. Phát
đại nguyện như mình mở trương mục ở ngân hàng, mình không
có tiền hay tiền ít không đủ trả nợ. Không đủ trả nợ
thì mình phải làm sao? Chủ nợ đòi thì mình ký ngân phiếu,
hoặc 10 năm hoặc 20 năm. Còn Tịnh Độ sau khi vãng sanh mới
trả, vãng sanh để sau này tu thành Phật. Như nghe gió thổi
chim kêu thì mình ham tu, cũng như mình ham tiền ở trên thế
gian này vậy.
Thành
Phật
tự nhiên độ chúng sanh. Tất cả chủ nợ thịt, chủ
nợ mạng đều ưu tiên độ hết. Nhưng mình phát đại nguyện
suông tức là nguyện giả, giống như mình ký ngân phiếu giả
mà ở trong ngân hàng không có tiền, rồi người ta đến kỳ
hẹn lại ngân hàng lấy tiền không có, người ký ngân phiếu
phải bị ở tù, giống như nguyện suông làm sao được vãng
sanh?
Cho
nên,
mình phải thực hành đại nguyện. Như mỗi ngày mình
được bao nhiêu tiền phải bỏ tiền vô ngân hàng, để sau
này người có ngân phiếu mới lãnh được. Người phát đại
nguyện là phát nguyện độ hết tất cả chúng sanh thì phải
coi tất cả chúng sanh đều bình đẳng.
Nhưng bây giờ đâu có thực hành được như vậy, con chó dơ dấy lại gần mình lại đuổi nó đi, con mối ăn hư đồ của mình làm sao cho nó chết, tức là không thực hành đại nguyện của mình phát. Nhiều người tu Tịnh Độ mà còn ăn thịt chúng sanh, làm sao có nguyện thật được? Muốn độ nó mà còn giết hại hay làm cho nó khổ thì nguyện giả rõ ràng, không có tội là may, làm sao có công đức để vãng sanh?
Hỏi:
“Nhất
nhân
hành đạo, cửu huyền siêu thăng” là sao?
Đáp:
Ấy
là
phá hoại nhân quả. Nhân quả thì người nào người nấy
chịu, không có ai làm thay thế cho ai được. Con cháu có hiếu
cách mấy cũng không ăn no dùm cho cha mẹ được, cha mẹ thương
con cách mấy cũng không ăn dùm cho con được. Nếu là vậy
không có nhân quả. Như Ngài Mục Kiền Liên tu chứng quả
A La Hán, nhưng mẹ của Ngài đâu có siêu thoát? Như vậy là
rõ ràng rồi!
Hỏi:
Kính
xin
Sư Phụ khai thị thần thông trong đạo Phật, có phải
thần thông mà Ngài Mục Kiền Liên đã chứng là có thể đi
trên hư không hay lỗ tai có thể nghe xa ngàn dặm?
Đáp:
Người
đó
không có biết Phật pháp. Bây giờ ai cũng có thần thông
bằng như chư Phật, không có kém hơn Phật một chút nào cả,
không có hiện lên là do bị che khuất. Trong cuốn Vũ Trụ
Quan Thế Kỷ 21 có giải thích kỹ.
Hỏi:
Đức
Phật
Thích Ca ngồi thiền định ở dưới gốc bồ đề, hàng
ngày còn phải có lúc ăn uống, làm vệ sinh. Ngài Hư Vân có
lần ngồi thiền 100 ngày, rồi sau đó Ngài vẫn bình thường.
Người Phật tử hiểu như thế nào về việc này để khỏi
phản với khoa học, như mỗi ngày cơ thể phải cần một
lượng calori để nuôi sống?
Đáp:
Người
này,
Phật pháp không biết, khoa học cũng không biết. Em của
Tổ Tịnh Độ Huệ Viễn là Huệ Trì, lúc đó Ngài Huệ Viễn
có đạo tràng tu Tịnh Độ được khoảng 123 vị tu. Ngài
Huệ Trì từ giả anh đi vô Tứ Xuyên thấy có lỗ cây lớn
rồi ngồi ở trong đó, rồi nhập định không hay biết, lâu
ngày lỗ cây dần dần bít lại, Ngài ở trong đó trải qua
hơn bảy trăm mấy năm.
Lúc
trời
sấm sét làm cho cây nứt ra, Ngài bị té ra ngoài, té
ra ngoài nhưng Ngài cũng chưa xuất định. Những người chăn
trâu bò thấy như chết, coi lại thì thân còn ấm và mềm.
Rồi báo cho xóm làng, xóm làng không biết, rồi báo lên quan
địa phương, quan địa phương cũng không hiểu, rồi mới
đưa lên kinh thành. Nhà vua có các vị Thiền sư búng vào tai
Ngài làm cho xuất định (đánh chuông cũng xuất định), xuất
định rồi, hỏi Ngài nhập định được bao lâu, Ngài nói
mới có một chút. Người ta hỏi Ngài là ai? Ngài trả lời
“tôi là em của Huệ Viễn, không biết anh tôi có mạnh khỏe
không?” Người ta nói “Huệ Viễn đã tịch cách đây đã
hơn bảy trăm năm rồi” Ngài mới biết mình đã nhập định
lâu như thế.