Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Tỳ Kheo Na Tiên

22 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 23214)
Kinh Tỳ Kheo Na Tiên

KINH TỲ KHEO NA TIÊN
Càn Long Đại Tạng Kinh Quyển 108, trang 706-753
Thiện Nhựt phỏng dịch và tìm hiểu

MỤC LỤC TỔNG QUÁT

Vài cảm nghĩ về Kinh Tì-kheo Na-Tiên
A. Bản Phỏng dịch
B. Tìm hiểu Nghĩa Chữ
C. Tìm hiểu Nghĩa Ý
D. Bản Phiên Âm

(Mục Lục Chi Tiết Xem Bên Dưới)

Nội-dung tập sách nầy gồm có:

A.- Bản Phỏng-dịch từ chánh-văn trong Đại-Tạng, còn thiếu tên tác-giả chữ Phạn và dịch-giả chữ Hán;
B.- Phần Tìm hiểu Nghĩa Chữ: từ-ngữ Phật-học được tra Từ-điển và giải-thích gọn, theo thứ-tự A, B, C;
C.- Phần Tìm hiểu Nghĩa Ý: các câu vấn-đáp xếp lại thành 10 vấn-đề: 9 về giáo-lý, 1 về linh-tinh.
D.- Bản Phiên-âm Hán-Việt

Thân-kính tặng Quí-Vị Đạo-hữu Tổ-đình Từ-Quang và Thiền-viện Linh-Sơn,
để nhớ các buổi trưa nói chuyện Đạo vào dịp cuối tuần,

Thiện-Nhựt
Huỳnh-Hữu-Hồng

MỤC LỤC CHI TIẾT

A. Bản Phỏng-dịch:
Quyển Thượng

001 Đức Phật vào rừng tòng
002 Tượng-vương vào rừng tòng gặp Đức Phật
003 Tượng-vương đến chùa nghe Kinh
004 Tiền-kiếp của Tì-kheo Na-Tiên và Vua Di-Lan
005 Na-Tiên xuất-gia cầu Đạo với Lâu-Hán
006 Na-Tiên đến chùa Hoà-Thiền-Tự
007 Na-Tiên bị Sư Ca-Duy-Viết trục-xuất, liền đi vào rừng ẩn-tu và đắc quả-vị A-la-hán
008 Na-Tiên đi hành-đạo trong dân-gian
009 Vua Di-Lan cai-trị nước Xá-Kiệt
010 Vua Di-Lan hỏi bí tu-sĩ Dã-Hoà-La
011 Vua Di-Lan thỉnh Na-Tiên
012 Vua Di-Lan vừa gặp Na-Tiên
013 Ai là Na-Tiên? Xe là gì? Người là gì?
014 Thái-độ đứng-đắn khi thảo-luận
015 Câu hỏi rất khó: chẳng nghe hỏi, mà đã có đáp rồi
016 Thỉnh Na-Tiên, mời thêm bao nhiêu vị sa-môn
017 Dọc đường, Na-Tiên khai-ngộ cho Triêm-Di-Lợi
018 Bàn về điều tinh-yếu: tại sao làm sa-môn?
019 Tại sao phải sanh trở lại? Trí-huệ giúp được gì?
020 Thiện là gì? Thành-tín là gì?
021 Năm điều ác là những gì?
022 Tinh-tấn là làm sao?
023 Hiếu-thuận ở đây là tuân theo 37 Phẩm Trợ-Đạo
024 Thế nào là bốn sự dừng-ý (= Tứ-niệm-xứ)
025 Thế nào là bốn sự đoạn-ý?
026 Thế nào là bốn niệm thần-túc?
027 Năm căn là những gì?
028 Năm lực gồm có những gì?
029 Thế nào là bảy giác-ý?
030 Tám đạo-hạnh (Bát-Chánh-Đạo) là những gì?
031 Lấy Bát-Chánh-Đạo làm căn-bản tu-hành
032 Tinh-tấn là gì?
033 Năm điều thiện là phải làm sao?
034 Thế nào gọi là nhứt-tâm?
035 Trí-huệ là như thế nào?
036 Các loại Kinh-điển đều dạy điều thiện để tận-diệt các điều ác.
037 Người tái-sanh lại thì dùng thân cũ hay thân mới?
038 Người hết tái-sanh lại có biết trước mình chẳng sanh lại nữa chăng?
039 Khả-năng của Trí-huệ lộ bày ra sao?
040 Năm điều thiện là những gì?
041 Vì sao bực đã đắc đạo còn sống lại phải chịu khổ?

Quyển Trung
042 Ba loại cảm-thọ: vui, khổ, chẳng vui chẳng khổ
043 Khi chết rồi, ai sanh trở lại?
044 Vua hỏi, Na-Tiên còn sanh trở lại?
045 Danh Thân nghĩa là gì?
046 Thời-gian
047 Thời-gian cùng với Danh Thân triển-chuyển:
048 Người ''có gốc'' nghĩa là gì?
049 Cái ''gốc sanh-tử'' là gì?
050 Thế-gian chẳng hề có việc tự-nhiên mà sanh ra
051 Cái gì là ''Người''?
052 Mắt và tâm cùng thấy
053 Giác-quan và tâm phối-hiệp
054 Vui-sướng nghĩa là gì?
055 Giác-tri là gì?
056 Sở-niệm là gì?
057 Thế nào là nội-động?
058 Các tâm-niệm phối-hợp nhau rồi vhẳng tách ra riêng từ món đìợc
059 Vị của muối
060 Năm giác-quan
061 Tại sao có sự bất-bình-đẳng giữa loài người?
062 Phải làm điều lành từ trước
063 ''Lộc riêng'' phải chăng là Nghiệp-lực?
064 Bốn đại (bốn nguyên-tố) nương vào nhau
065 Đạo Niết-bàn là gì?
066 Đắc đạo Niết-bàn
067 Dầu chưa đắc Niết-bàn, cũng biết Niết-bàn là vui-sướng
068 Chẳng từng thấy Phật, đâu có nghĩa là chẳng hề có Đức Phật

Quyển Hạ
069 Chẳng ai thắng nổi Đức Phật
070 Khi tái-sanh, con người thọ thân mới
071 Thân mới mang theo nghiệp của thân cũ
072 Chỗ đã làm thiện-ác trước, nay ở vào đâu?
073 Người phải tái-sanh, tự biết điều đó
074 Có Niết-bàn chăng?
075 Sa-môn giữ-gìn thân, chớ chẳng mến-thương thân
076 Thân-tướng trang-nghiêm của Đức Phật
077 Đức Phật đâu phải là đệ-tử của Đại-Phạm-Thiên
078 Đức Phật tự biết lấy Kinh-kệ và Giới-luật
079 Khóc cha mẹ chết và khóc khi nghe Kinh
080 Bực đắc đạo và kẻ chưa đắc đạo, khác nhau
081 Trí nhớ của con người
082 Mười sáu cách để nhớ lại việc cũ
083 Đức Phật biết tất cả, sao chẳng dạy hết một lần?
084 Lỡ làm ác, biết niệm Phật, chết khỏi sa địa-ngục
085 Sa-môn học đạo vì muốn thoát mọi khổ về sau
086 Bực La-hán bay lên Trời nhanh như duỗi cánh tay
087 Chết cùng lúc thì đến nơi tái-sanh cùng lúc
088 Dùng bảy việc để học biết Đạo
089 Lỡ làm điều ác, biết hối-cải, tội giảm dần đi
090 Người trí, kẻ ngu cùng làm ác, ai nặng tội hơn?
091 Sức thần-túc
092 Có thể ngưng hơi thở ra vào được chăng?
093 Biển và nước biển
094 Tư-duy đến các sự-việc cao-thâm
095 Tinh-thần, Trí-huệ và Tự-nhiên
096 Phân-tách kỹ thân-tâm ra, đó là vô-ngã chăng?
097 Luận-bàn Giáo-Pháp, Vương và Na-Tiên đều vui.

B. Phần Tìm hiểu Nghĩa Chữ

C. Phần Tìm hiểu Nghĩa Ý
098 Xuất-xứ của quyển ''Tì-kheo Na-Tiên''
099 Bố-cục của quyển ''Tì-kheo Na-Tiên''
100 Tóm-lược về tiền-kiếp của Na-Tiên và Di-Lan
101 Na-Tiên đắc quả A-la-hán
102 Sa-môn Dã-Hoà-La bị Vua Di-Lan hỏi bí
103 Vua Di-Lan thử-thách Tì-kheo Na-Tiên
104 Thái-độ trong khi bàn-luận Giáo-Pháp
105 Dọc đường Triêm-Di-Lợi được Na-Tiên khai-ngộ
106 Sắp-xếp lại các loại câu hỏi về Giáo-Pháp

I.- Vấn-đề: Đi tu làm Sa-môn
107 Tại sao đi tu làm sa-môn?
108 Có mấy hạng Sa-môn?

II.- Vấn-đề: Tái-sanh Luân-hồi
109 Vấn-đề Tái-sanh được nêu lên nhiều lần trong quyển ''Tì-kheo Na-Tiên''
110 Thắc-mắc lớn: Chết rồi, đi về đâu?
111 Có hiện-tượng Tái-sanh hay không?
112 Cái gì mất, cái gì còn, khi chết đi?
113 Tại sao phải tái-sanh lại? Ai phải tái-sanh lại, còn ai chẳng phải tái-sanh trở lại?
114 Người hết tái-sanh lại có tự-biết điều đó chăng?
115 Vua hỏi Na-Tiên có biết mình còn phải tái-sanh nữa không?
116 Khi tái-sanh, dùng thân cũ hay có thân mới?
117 Chỗ đã làm thiện, ác nay đi về đâu và thân mới có mang theo nghiệp cũ không?
118 Thế nào là Danh-Sắc triển-chuyển qua thời-gian tòng theo các nguyên-nhân dây chuyền?
119 Đối-chiếu lập-luận của Na-Tiên với Lý Mười-hai Nhân-Duyên trong Giáo-lý
120 Cái ''gốc sanh-tử'' của chúng-sanh là gì?
121 Hai người chết cùng lúc, có tái-sanh cùng một lúc ở hai nơi xa gần khác nhau không?
122 Chẳng hề có việc tự-nhiên mà sanh ra
123 Vấn-đề Tái-sanh Luân-hồi: tin hay chẳng tin?

III.- Vấn-đề: Phân-biệt các điều thiện ác.
124 Năm điều thiện và năm điều ác là những gì?
125 Kinh Thập-Thiện kể mười điều thiện cụ-thể hơn
126 Phải làm điều thiện từ trước
127 Trót gây điều ác, nay phải làm gì?
IV.- Vấn-đề: Ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo
128 Ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo gồm có những gì?
129 Bốn lãnh-vực để giữ chánh-niệm
130 Bốn sự đoạn-ý chẳng phải là Tứ-Chánh-cần
131 Phải chăng Bốn Niệm Thần-Túc là Tứ Như-ý-túc?
132 Năm căn và năm lực là những gì?
133 Bảy giác-ý hay là Bảy giác-chi?
134 Bát-Chánh-Đạo là những gì?
135 Lấy tám loại đạo-hạnh (Bát-Chánh-Đạo) làm căn-bản tu-hành.

V.- Vấn-đề: Trí-Huệ
136 Vấn-đề Trí-huệ được đặt ra ở đây như thế nào?
137 Thế nào là Trí-Huệ?
138 Trí-huệ với Bản-năng và Nghiệp-lực
139 Trí nhớ và các cách nhớ lại của con người

VI.- Vấn-đề: Các loại cảm-thọ.
140 Ba loại cảm-thọ: lạc-thọ, khổ-thọ và xả-thọ

VII.- Vấn-đề: Đắc Đạo và cõi Niết-bàn.
141 Vấn-đề đắc Đạo trong quyển ''Tì-kheo Na-Tiên''
142 Làm cách nào để học biết Đạo?
143 Bực đắc Đạo khác với kẻ chưa đắc Đạo ở điểm nào?
144 Bực đắc Đạo có những khả-năng nào?
145 Bực đắc Đạo suy-tư đến các điều cao-thâm
146 Niết-bàn là gì?
147 Sống đến bao giờ mới ''nhập Niết-bàn''?

VIII.- Vấn-đề: Phật.
148 32 tướng trang-nghiêm trên thân Phật
149 Khả-năng siêu-việt của Đức Phật

IX.- Vấn-đề: Con người và thuyết Vô-ngã
150 Thế-gian chẳng có ''người''
151 Từ nhãn-thức đến ý-thức
152 Giác-quan và tâm phối-hiệp sanh ra sướng-khổ
153 Các tâm-sở đã phối-hiệp rồi chẳng tách ra được
154 Vai trò của các giác-quan
155 Sự bất-bình-đẳng nơi loài người
156 ''Lộc riêng'' hay là chính đó là Nghiệp lực?
157 Nên có thái-độ nào đối với thân-tâm nầy?
158 Thân-tâm nầy, khi phân-tách kỹ ra, là vô-ngã
X- Vấn-đề: Các câu hỏi linh-tinh về kiến-thức tổng-quát
159 Muối, nước biển và biển
160 Tứ-đại là gì?
161 Khóc
162 Tâm-trạng của Vua Di-Lan và Tì-kheo Na-Tiên sau cuộc đàm-luận về Đạo-pháp

Vài lời xin thưa nốt...

D. Bản Phiên-âm

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49717)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34612)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33432)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43904)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57032)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47541)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39414)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38456)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52919)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36588)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32230)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40437)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43463)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31439)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46697)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36169)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28683)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29215)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31876)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28796)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33345)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29114)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60967)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39722)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26647)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29640)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37346)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40072)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26824)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42633)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37270)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28275)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28888)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26388)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27155)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26178)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34606)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27794)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30454)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33266)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28548)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30058)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25475)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21834)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51272)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26709)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28603)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27687)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24343)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27450)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31914)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30172)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27680)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35415)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27431)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 29996)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31754)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23000)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24168)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23008)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant