Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Tỳ Kheo Na Tiên

22 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 23210)
Kinh Tỳ Kheo Na Tiên

KINH TỲ KHEO NA TIÊN
Càn Long Đại Tạng Kinh Quyển 108, trang 706-753
Thiện Nhựt phỏng dịch và tìm hiểu

MỤC LỤC TỔNG QUÁT

Vài cảm nghĩ về Kinh Tì-kheo Na-Tiên
A. Bản Phỏng dịch
B. Tìm hiểu Nghĩa Chữ
C. Tìm hiểu Nghĩa Ý
D. Bản Phiên Âm

(Mục Lục Chi Tiết Xem Bên Dưới)

Nội-dung tập sách nầy gồm có:

A.- Bản Phỏng-dịch từ chánh-văn trong Đại-Tạng, còn thiếu tên tác-giả chữ Phạn và dịch-giả chữ Hán;
B.- Phần Tìm hiểu Nghĩa Chữ: từ-ngữ Phật-học được tra Từ-điển và giải-thích gọn, theo thứ-tự A, B, C;
C.- Phần Tìm hiểu Nghĩa Ý: các câu vấn-đáp xếp lại thành 10 vấn-đề: 9 về giáo-lý, 1 về linh-tinh.
D.- Bản Phiên-âm Hán-Việt

Thân-kính tặng Quí-Vị Đạo-hữu Tổ-đình Từ-Quang và Thiền-viện Linh-Sơn,
để nhớ các buổi trưa nói chuyện Đạo vào dịp cuối tuần,

Thiện-Nhựt
Huỳnh-Hữu-Hồng

MỤC LỤC CHI TIẾT

A. Bản Phỏng-dịch:
Quyển Thượng

001 Đức Phật vào rừng tòng
002 Tượng-vương vào rừng tòng gặp Đức Phật
003 Tượng-vương đến chùa nghe Kinh
004 Tiền-kiếp của Tì-kheo Na-Tiên và Vua Di-Lan
005 Na-Tiên xuất-gia cầu Đạo với Lâu-Hán
006 Na-Tiên đến chùa Hoà-Thiền-Tự
007 Na-Tiên bị Sư Ca-Duy-Viết trục-xuất, liền đi vào rừng ẩn-tu và đắc quả-vị A-la-hán
008 Na-Tiên đi hành-đạo trong dân-gian
009 Vua Di-Lan cai-trị nước Xá-Kiệt
010 Vua Di-Lan hỏi bí tu-sĩ Dã-Hoà-La
011 Vua Di-Lan thỉnh Na-Tiên
012 Vua Di-Lan vừa gặp Na-Tiên
013 Ai là Na-Tiên? Xe là gì? Người là gì?
014 Thái-độ đứng-đắn khi thảo-luận
015 Câu hỏi rất khó: chẳng nghe hỏi, mà đã có đáp rồi
016 Thỉnh Na-Tiên, mời thêm bao nhiêu vị sa-môn
017 Dọc đường, Na-Tiên khai-ngộ cho Triêm-Di-Lợi
018 Bàn về điều tinh-yếu: tại sao làm sa-môn?
019 Tại sao phải sanh trở lại? Trí-huệ giúp được gì?
020 Thiện là gì? Thành-tín là gì?
021 Năm điều ác là những gì?
022 Tinh-tấn là làm sao?
023 Hiếu-thuận ở đây là tuân theo 37 Phẩm Trợ-Đạo
024 Thế nào là bốn sự dừng-ý (= Tứ-niệm-xứ)
025 Thế nào là bốn sự đoạn-ý?
026 Thế nào là bốn niệm thần-túc?
027 Năm căn là những gì?
028 Năm lực gồm có những gì?
029 Thế nào là bảy giác-ý?
030 Tám đạo-hạnh (Bát-Chánh-Đạo) là những gì?
031 Lấy Bát-Chánh-Đạo làm căn-bản tu-hành
032 Tinh-tấn là gì?
033 Năm điều thiện là phải làm sao?
034 Thế nào gọi là nhứt-tâm?
035 Trí-huệ là như thế nào?
036 Các loại Kinh-điển đều dạy điều thiện để tận-diệt các điều ác.
037 Người tái-sanh lại thì dùng thân cũ hay thân mới?
038 Người hết tái-sanh lại có biết trước mình chẳng sanh lại nữa chăng?
039 Khả-năng của Trí-huệ lộ bày ra sao?
040 Năm điều thiện là những gì?
041 Vì sao bực đã đắc đạo còn sống lại phải chịu khổ?

Quyển Trung
042 Ba loại cảm-thọ: vui, khổ, chẳng vui chẳng khổ
043 Khi chết rồi, ai sanh trở lại?
044 Vua hỏi, Na-Tiên còn sanh trở lại?
045 Danh Thân nghĩa là gì?
046 Thời-gian
047 Thời-gian cùng với Danh Thân triển-chuyển:
048 Người ''có gốc'' nghĩa là gì?
049 Cái ''gốc sanh-tử'' là gì?
050 Thế-gian chẳng hề có việc tự-nhiên mà sanh ra
051 Cái gì là ''Người''?
052 Mắt và tâm cùng thấy
053 Giác-quan và tâm phối-hiệp
054 Vui-sướng nghĩa là gì?
055 Giác-tri là gì?
056 Sở-niệm là gì?
057 Thế nào là nội-động?
058 Các tâm-niệm phối-hợp nhau rồi vhẳng tách ra riêng từ món đìợc
059 Vị của muối
060 Năm giác-quan
061 Tại sao có sự bất-bình-đẳng giữa loài người?
062 Phải làm điều lành từ trước
063 ''Lộc riêng'' phải chăng là Nghiệp-lực?
064 Bốn đại (bốn nguyên-tố) nương vào nhau
065 Đạo Niết-bàn là gì?
066 Đắc đạo Niết-bàn
067 Dầu chưa đắc Niết-bàn, cũng biết Niết-bàn là vui-sướng
068 Chẳng từng thấy Phật, đâu có nghĩa là chẳng hề có Đức Phật

Quyển Hạ
069 Chẳng ai thắng nổi Đức Phật
070 Khi tái-sanh, con người thọ thân mới
071 Thân mới mang theo nghiệp của thân cũ
072 Chỗ đã làm thiện-ác trước, nay ở vào đâu?
073 Người phải tái-sanh, tự biết điều đó
074 Có Niết-bàn chăng?
075 Sa-môn giữ-gìn thân, chớ chẳng mến-thương thân
076 Thân-tướng trang-nghiêm của Đức Phật
077 Đức Phật đâu phải là đệ-tử của Đại-Phạm-Thiên
078 Đức Phật tự biết lấy Kinh-kệ và Giới-luật
079 Khóc cha mẹ chết và khóc khi nghe Kinh
080 Bực đắc đạo và kẻ chưa đắc đạo, khác nhau
081 Trí nhớ của con người
082 Mười sáu cách để nhớ lại việc cũ
083 Đức Phật biết tất cả, sao chẳng dạy hết một lần?
084 Lỡ làm ác, biết niệm Phật, chết khỏi sa địa-ngục
085 Sa-môn học đạo vì muốn thoát mọi khổ về sau
086 Bực La-hán bay lên Trời nhanh như duỗi cánh tay
087 Chết cùng lúc thì đến nơi tái-sanh cùng lúc
088 Dùng bảy việc để học biết Đạo
089 Lỡ làm điều ác, biết hối-cải, tội giảm dần đi
090 Người trí, kẻ ngu cùng làm ác, ai nặng tội hơn?
091 Sức thần-túc
092 Có thể ngưng hơi thở ra vào được chăng?
093 Biển và nước biển
094 Tư-duy đến các sự-việc cao-thâm
095 Tinh-thần, Trí-huệ và Tự-nhiên
096 Phân-tách kỹ thân-tâm ra, đó là vô-ngã chăng?
097 Luận-bàn Giáo-Pháp, Vương và Na-Tiên đều vui.

B. Phần Tìm hiểu Nghĩa Chữ

C. Phần Tìm hiểu Nghĩa Ý
098 Xuất-xứ của quyển ''Tì-kheo Na-Tiên''
099 Bố-cục của quyển ''Tì-kheo Na-Tiên''
100 Tóm-lược về tiền-kiếp của Na-Tiên và Di-Lan
101 Na-Tiên đắc quả A-la-hán
102 Sa-môn Dã-Hoà-La bị Vua Di-Lan hỏi bí
103 Vua Di-Lan thử-thách Tì-kheo Na-Tiên
104 Thái-độ trong khi bàn-luận Giáo-Pháp
105 Dọc đường Triêm-Di-Lợi được Na-Tiên khai-ngộ
106 Sắp-xếp lại các loại câu hỏi về Giáo-Pháp

I.- Vấn-đề: Đi tu làm Sa-môn
107 Tại sao đi tu làm sa-môn?
108 Có mấy hạng Sa-môn?

II.- Vấn-đề: Tái-sanh Luân-hồi
109 Vấn-đề Tái-sanh được nêu lên nhiều lần trong quyển ''Tì-kheo Na-Tiên''
110 Thắc-mắc lớn: Chết rồi, đi về đâu?
111 Có hiện-tượng Tái-sanh hay không?
112 Cái gì mất, cái gì còn, khi chết đi?
113 Tại sao phải tái-sanh lại? Ai phải tái-sanh lại, còn ai chẳng phải tái-sanh trở lại?
114 Người hết tái-sanh lại có tự-biết điều đó chăng?
115 Vua hỏi Na-Tiên có biết mình còn phải tái-sanh nữa không?
116 Khi tái-sanh, dùng thân cũ hay có thân mới?
117 Chỗ đã làm thiện, ác nay đi về đâu và thân mới có mang theo nghiệp cũ không?
118 Thế nào là Danh-Sắc triển-chuyển qua thời-gian tòng theo các nguyên-nhân dây chuyền?
119 Đối-chiếu lập-luận của Na-Tiên với Lý Mười-hai Nhân-Duyên trong Giáo-lý
120 Cái ''gốc sanh-tử'' của chúng-sanh là gì?
121 Hai người chết cùng lúc, có tái-sanh cùng một lúc ở hai nơi xa gần khác nhau không?
122 Chẳng hề có việc tự-nhiên mà sanh ra
123 Vấn-đề Tái-sanh Luân-hồi: tin hay chẳng tin?

III.- Vấn-đề: Phân-biệt các điều thiện ác.
124 Năm điều thiện và năm điều ác là những gì?
125 Kinh Thập-Thiện kể mười điều thiện cụ-thể hơn
126 Phải làm điều thiện từ trước
127 Trót gây điều ác, nay phải làm gì?
IV.- Vấn-đề: Ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo
128 Ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo gồm có những gì?
129 Bốn lãnh-vực để giữ chánh-niệm
130 Bốn sự đoạn-ý chẳng phải là Tứ-Chánh-cần
131 Phải chăng Bốn Niệm Thần-Túc là Tứ Như-ý-túc?
132 Năm căn và năm lực là những gì?
133 Bảy giác-ý hay là Bảy giác-chi?
134 Bát-Chánh-Đạo là những gì?
135 Lấy tám loại đạo-hạnh (Bát-Chánh-Đạo) làm căn-bản tu-hành.

V.- Vấn-đề: Trí-Huệ
136 Vấn-đề Trí-huệ được đặt ra ở đây như thế nào?
137 Thế nào là Trí-Huệ?
138 Trí-huệ với Bản-năng và Nghiệp-lực
139 Trí nhớ và các cách nhớ lại của con người

VI.- Vấn-đề: Các loại cảm-thọ.
140 Ba loại cảm-thọ: lạc-thọ, khổ-thọ và xả-thọ

VII.- Vấn-đề: Đắc Đạo và cõi Niết-bàn.
141 Vấn-đề đắc Đạo trong quyển ''Tì-kheo Na-Tiên''
142 Làm cách nào để học biết Đạo?
143 Bực đắc Đạo khác với kẻ chưa đắc Đạo ở điểm nào?
144 Bực đắc Đạo có những khả-năng nào?
145 Bực đắc Đạo suy-tư đến các điều cao-thâm
146 Niết-bàn là gì?
147 Sống đến bao giờ mới ''nhập Niết-bàn''?

VIII.- Vấn-đề: Phật.
148 32 tướng trang-nghiêm trên thân Phật
149 Khả-năng siêu-việt của Đức Phật

IX.- Vấn-đề: Con người và thuyết Vô-ngã
150 Thế-gian chẳng có ''người''
151 Từ nhãn-thức đến ý-thức
152 Giác-quan và tâm phối-hiệp sanh ra sướng-khổ
153 Các tâm-sở đã phối-hiệp rồi chẳng tách ra được
154 Vai trò của các giác-quan
155 Sự bất-bình-đẳng nơi loài người
156 ''Lộc riêng'' hay là chính đó là Nghiệp lực?
157 Nên có thái-độ nào đối với thân-tâm nầy?
158 Thân-tâm nầy, khi phân-tách kỹ ra, là vô-ngã
X- Vấn-đề: Các câu hỏi linh-tinh về kiến-thức tổng-quát
159 Muối, nước biển và biển
160 Tứ-đại là gì?
161 Khóc
162 Tâm-trạng của Vua Di-Lan và Tì-kheo Na-Tiên sau cuộc đàm-luận về Đạo-pháp

Vài lời xin thưa nốt...

D. Bản Phiên-âm

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19688)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23951)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41208)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19686)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23973)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21741)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23291)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27495)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26547)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29305)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33175)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20179)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25760)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20902)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31299)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38550)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21422)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44238)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29812)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42184)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22128)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45733)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32102)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23946)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24377)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29243)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33904)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27674)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32118)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21057)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28840)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21560)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28055)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22057)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21421)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19488)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19457)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19824)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19232)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29167)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20607)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28272)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23645)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33163)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31830)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21363)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39608)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21542)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19364)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26369)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24810)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21747)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22369)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29123)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22550)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20465)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23507)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21229)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35302)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24539)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant