Một bản thâu gọn quyển "Milinda Panha"
Bản Anh ngữ: Tỳ Kheo Pesala - Bản Việt ngữ: Cư sĩ Liễu Pháp
Sau
khi
cân nhắc suốt đêm những điều thảo luận với Ngài
Nāgasena, vua Milinda tự ý có tám lời nguyền như sau: “ trong
bảy ngày tới đây, ta sẽ không xử vụ án nào, không quyết
định về quốc sự; ta sẽ không nghĩ tới ái dục, không
có tư tưởng sân hận và si mê; ta sẽ nhún nhường đối
với thuộc cấp hầu cận và người trong hoàng tộc; ta sẽ
cẩn thận theo rõi hành động của mình và thu thúc lục căn;
tâm ta sẽ tràn ngập với từ bi rải ra cho mọi chúng sinh.”
Rồi
nhà
vua hầu chuyện riêng với Ngài Nāgasena, như sau: “Có
tám nơi phải tránh để có thể thảo luận thâm sâu; đó
là nơi mà mặt đất ghồ ghề, lồi lõm, vật chất khuếch
tán; những nơi không an toàn làm tâm bị xáo trộn vì sợ
hãi và do đó không thể thâu nhận ý nghĩa cho rõ ràng; những
nơi nhiều gió làm tiếng nói không phân biệt được; những
nơi kín đáo, hẻo lánh có thể có kẻ nghe trộm; những nơi
thiêng liêng mà đề tài thảo luận có thể bị phân tán vì
khung cảnh chung quanh; trên con đường mà cuộc thảo luận
có thể trở nên nhàm chán; trên chiếc cầu dao động, không
vững vàng và nơi tắm rửa công cộng lắm người nói chuyện.
“Bạch
Đại
Đức, cũng có tám loại người có thể làm hư hỏng
cuộc đàm luận; đó là người tham ái, người sân hận hay
người si mê, kẻ kiêu ngạo, kẻ thèm khát, kẻ lười nhác,
kẻ độc đoán, và kẻ ngu ngốc – đó là những người làm
phá hại sự thảo luận thâm sâu.
“Bạch
Ngài
Nāgasena, có tám nguyên nhân của sự phát triễn và trưỡng
thành của trí tuệ: 1) Tuổi tác đã trưỡng thành; 2) Có tiếng
tăm tốt; 3) Siêng năng học hỏi; 4) Thân cận với thiện trí
thức; 5) Có tâm hướng đến chân lý; 6) Thích vấn đạo;
7) Gần gũi với các vị có đạo hạnh; 8) Ở nơi quốc độ
thích hợp. Đây là nơi không có sự chống đối việc thảo
luận lại vấn đề chưa rõ và Trẫm là một học trò gương
mẫu, rất thận trọng và sự hiểu biết đã trưỡng thành.
“Bạch
Ngài,
có 25 trách nhiệm của một vị thầy đối với học
trò xứng đáng của mình: vị thầy phải luôn luôn bảo vệ
học trò của mình, cho học trò biết những gì cần học hỏi
và những gì phải tránh, những gì nên coi trọng và những
gì không cần quan tâm đến. Vị thầy nên chỉ dẫn học trò
về cách ngủ nghỉ, giữ gìn sức khoẻ, nên dùng và tránh
những thức ăn gì, dạy học trò sự điều độ về ẩm thực
và chia xẻ với học trò những gì được cúng dường trong
bình bát của mình. Vị thầy nên khuyến khích trò khi trò
nhũn chí và hướng dẫn trò về những người bạn đồng
hành, những làng xã và tu viện thích đáng để lui tới. Vị
thầy không bao giờ nên được phép dễ duôi đùa giỡn hoặc
nói chuyện lố bịch với học trò. Nếu thấy học trò của
mình có khuyết điểm, vị thầy nên kiên nhẫn với trò. Vị
thầy nên cần mẫn, giữ giới trong sạch, đáng được tôn
kính và tốt bụng. Vị thầy nên xem học trò như con của
mình, cố sức hướng dẫn trò tiến tới, cho kiến thức tăng
trưỡng, thương yêu học trò, không bao giờ trốn tránh giúp
đở nhu cầu của trò, không bao giờ thờ ơ với bất cứ
trách nhiệm nào và giúp học trò trở lại đúng đường khi
học trò sơ sẩy.”
“Thưa Đại Vương, có mười đức tính của một đệ tử cư sĩ. Người đệ tử nên chia xẻ vui buồn của Tăng-đoàn, lấy Phật Pháp để dẫn đường, hoan hỷ cúng dường với khả năng của mình và cố sức làm sống lại giáo pháp khi giáo pháp suy đồi. Đệ tử giữ chánh kiến và, không bị ràng buộc bởi sự kích thích của lễ hội, người đệ tử không chạy theo một vị thầy khác cho dù là để cứu vãn mạng sống của mình. Người đệ tử theo rõi thân, khẩu, ý của mình, thích sống hòa hợp và không thiên vị. Vì không giả dối, người đệ tử quy y Phật, Pháp, Tăng. Tất cả những đức tính trên Đại Vương đều có, vì vậy hẳn nhiên trong ngài, khi thấy sự suy đồi của Phật giáo, quả đã có ý muốn thấy tôn giáo này được phồn thịnh. Bần tăng sẽ để ngài tự tiện hỏi bất cứ cái gì muốn hỏi.”
1.
Lễ bái cúng dường lên Đức Phật
“Bạch
ngài
Nāgasena, những vị lãnh đạo của những giáo phái khác
nói rằng ‘Nếu Đức Phật hoan hỷ nhận lễ bái, cúng dường
thì Ngài không hẳn là hết ràng buộc với thế gian. Vì thế,
việc lễ bái dâng cúng cho Ngài chẳng có ý nghĩa gì và vô
ích’. Xin Đại Đức gở mối rối rắm này, giải quyết
vấn đề khó xử này và soi rõ ánh sáng cho Phật-tử hậu
lai để bác bỏ tà-kiến của những người chống đối.’
“Thưa
Đại
Vương, Đức Phật đã hoàn tòan giải thoát và chẳng
có dính mắc với lễ bái hoặc lễ vật cúng dường dâng
lên Ngài.”
“Bạch
Đại
Đức, người con có thể nói lời ca ngợi người cha,
hoặc người cha ca ngợi người con, nhưng điều đó không
đủ căn bản để chấm dứt được lời chỉ trích.”
“Mặc
dầu
bây giờ Đức Thế Tôn đã nhập diệt và không thể
nói là Ngài hoan hỷ nhận lễ bái và lễ vật cúng dường
lên Ngài; tuy nhiên những hành động lễ bái nhân danh Ngài
vẫn có giá trị và có phước báu lớn. Như một cơn
gió lớn mạnh thổi qua, Đức Thế Tôn thổi qua thế gian lòng
từ bi, dịu dàng và trong sạch của Ngài. Cũng giống như con
người bị cơn nóng sốt hành hạ được cơn gió mát làm
dịu bớt, chúng sinh đang bị hành hạ bởi sức nóng của
tham ái, sân hận và si mê cũng được giáo pháp siêu phàm
của Ngài làm nguôi đi sức nóng. Mặc dầu Đức Thế Tôn
đã nhập diệt, Ngài đã để lại giáo pháp, giới luật và
những di vật quí hóa mà giá trị là do ở giới hạnh, thiền
định, trí tuệ và sự giải thoát của Ngài. Chúng sinh bị
đau khổ vì sự bất hạnh của tiến trình “hữu” (*V8.1)
vẫn còn có thể hưởng lợi lạc của giáo pháp Giới, Định,
Huệ, cũng giống những người nào có quạt vẫn tạo được
làn gió mát mặc dầu cơn gió đức Phật thổi qua đã tắt.
Và điều này Đức Thế Tôn đã tiên đoán khi Ngài nói với
ngài Ananda: ‘Vài người trong quí vị có lẽ nghĩ rằng, “Khi
lời nói của vị thầy chấm dứt, chúng ta không còn thầy
dạy nữa”, tuy nhiên quí vị không nên nghĩ như vậy. Giáo
Pháp mà ta đã giảng dạy và giới luật mà ta đã vạch ra,
nên xem đó là thầy khi ta không còn nữa’.
“
Và xin Đại Vương hãy nghe một lý do khác. Đại Vương đã
có nghe chưa chuyện quỷ dạ xoa Nandaka dám đập vào đầu
ngài Sāriputta và bị trái đất nuốt mất?”
“Vâng,
bạch
Ngài có, đó là chuyện nhiều người biết.”
“Nhưng
ngài
Sāriputta đã chấp nhận như vậy?”
“
Đại Đức Sāriputta chẳng bao giờ chấp nhận sự đau đớn
nào tạo nên cho chúng sinh vì ngài đã gột rữa hết
mọi sân hận.”
“Nhưng
tại
sao ngài Sāriputta không chấp nhận mà quỷ Nandaka vẫn
bị đất nuốt đi?”
________________________________________________________________________
*V8.1:
Hữu
là 1 trong 12 khoen (Thập Nhị Nhân Duyên) của Bánh xe Luân
Hồi (round of rebirth, samsāra) ; Hữu do Thủ (dính mắc) là nguyên
nhân và có quả là Sinh.
________________________________________________________________________
“Bởi
vì sức mạnh của hành động ác độc đó.”
“Thưa
Đại
Vương, có mấy kẻ đã bị trái đất nuốt đi?”
“Bạch
ngài
Đại Đức, có năm. Đó là Ciñca, Sapabuddha, Devadatta,
Nandaka và Nanda; tất cả đều bị đất nuốt mất.”
“Thưa
Đại
Vương, những ai là các vị bị chúng xúc phạm?”
“Đó
chính
là Đức Thế Tôn và các đệ tử của Ngài.”
“Thưa
Đại
Vương, như vậy một hành động về Đức Như Lai, mặc
dầu là Ngài đã nhập diệt, vẫn có giá trị và hậu quả.”
“
Bạch Đại Đức, câu hỏi sâu sắc này đã được Ngài giảng
giải. Ngài đã vén mở cái gì bị che dấu, gở mối rối
rắm, khai quang bụi rặm, bẻ lại quan điểm sai lầm và những
kẻ theo bè phái tà kiến đã bị che khuất trong bóng tối
do Ngài, một vị thầy lỗi lạc nhất.”
2.
Đức Phật thông suốt mọi sự
“Bạch
ngài
Nāgasena, phải chăng Đức Phật thông suốt mọi sự?”
“Thưa
Đại
Vương, đúng vậy. Tuy nhiên có trường hợp Ngài phải
quán mới biết được.”
“Thế
thì
không thể nói là thông suốt mọi sự nếu Ngài cần phải
qua giai đoạn quán mới đến được sự biết.”
“
Bần tăng sẽ giảng giải sâu hơn. Có bảy tầng lớp giác
ngộ của tâm hoặc bảy hạng giác ngộ. Trước hết, với
con người bình thường, còn đầy tham dục, sân hận và si
mê; họ chưa được huấn luyện về thân, khẩu, ý; sự suy
nghĩ của họ còn chậm chạp và khó khăn.
“Hạng
giác
ngộ thứ hai là các thánh Tu-đà-hườn (*E 8.2, Phụ lục,
trg 99-1); các ngài đã có chánh kiến và hiểu đúng Phật Pháp.
Sự suy nghĩ của các ngài nhanh và dễ dàng cho những gì liên
hệ đến 3 ràng buộc đầu tiên (thân kiến, hoài nghi, giới
cấm thủ), nhưng ngoài ra thì sự suy nghĩ vẫn còn chậm và
khó khăn.
“Hạng
giác
ngộ thứ ba là các thánh Tư-đà-hàm (*E 8.2.2, Phụ lục
trg 99-2); các vị này giảm bớt hai ràng buộc nữa là tham
ái và sân hận. Sự suy nghĩ của các vị này nhanh và
dễ dàng cho những gì liên hệ đến 5 ràng buộc trên, nhưng
ngoài ra thì sự suy nghĩ vẫn còn chậm và khó khăn.
________________________________________________________________________
*V
8.2.1:
Reflection được dịch là quán hay hướng tâm.
*E
8.2,
Phụ lục trg 99-1: Tu-đà-hườn (sotāppana, The Stream-winner)
là Dự lưu, bậc thánh thứ nhất khi đã dứt bỏ được 3
sự ràng buộc là thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ; chắc
chắn trong vòng 7 kiếp sẽ đạt được quả vị A-la-hán.
(*V8.2.2: dính mắc với tụng đọc và nghi lễ là giới cấm
thủ, sīlabattam).
*E
8.2,
Phụ lục trg 99-2: Tư-đà-hàm (sakadāgāmi, The Once-returner)
là Nhất lai, bậc thánh thứ hai khi giảm bớt hai ràng buộc
nữa là tham ái và sân hận. Các vị này chỉ còn tái sinh
1 kiếp nữa là đạt được quả vị A-la-hán.
*E
8.2,
Phụ lục trg 99-3: A-na-hàm (quả vị Bất Lai, anāgāmi,
Non-returner) là Bất lai, bậc thánh thứ ba, đã dứt bỏ hết
tham ái và sân hận, không tái sanh trên trái đất này nữa
và sẽ đạt được quả vị A-la-hán.
*E
8.2,
Phụ lục trg 99-4: A-la-hán (arahant) là bậc dứt bỏ thêm
5 ràng buộc cao hơn (5 higher fetters, uddhambhāgiya-samyojana). (*V8.2.3:
các vị đã giải thoát khỏi 10 ràng buộc, kể cả ràng buộc
thuộc sắc giới và vô-sắc giới, đạt được mục đích
cuối cùng, không còn tái sanh dưới một hình tướng nào nữa).
________________________________________________________________________
“Hạng
giác ngộ thứ tư là các thánh A-na-hàm (*E 8.2, Phụ lục trg
99-3) đã dứt sạch tham dục và sân hận. Sự suy nghĩ của
các vị này nhanh và dễ dàng cho những gì liên hệ với các
ràng buộc trên, nhưng ngoài ra thì sự suy nghĩ vẫn còn chậm
và khó khăn.
“Hạng
giác
ngộ thứ năm là các vị A-la-hán (*E 8.2, Phụ lục trg
99-4) đã loại bỏ hết 5 ràng buộc cuối cùng là sắc ái,
vô-sắc ái, ngã mạn, phóng tâm và vô minh để đạt được
giải thoát. (*V 8.2.4). Sự suy nghĩ của các ngài nhanh và dễ
dàng theo tầm nhìn của đệ tử, nhưng ngoài ra thì vẫn chậm
và khó khăn.
“Hạng
giác
ngộ thứ sáu là các vị Phật Độc Giác tự mình tu
chứng, không có thầy chỉ dạy. Sự suy nghĩ của các vị
Phật Độc Giác cũng nhanh và dễ dàng như trong hàng của các
vị, nhưng so với các vị Phật Toàn Giác thì chậm và khó
khăn hơn. So với Phật Toàn Giác thì một vị Phật Độc Giác
cũng giống như một người sẳn sàng vượt qua con sông nhỏ
trong trong lãnh vực của mình nhưng có thể e ngại khi vượt
đại dương.
“Hạng
giác
ngộ cuối cùng là các vị Phật Toàn Giác. Các vị có
tất cả kiến thức đã chứa sẳn trong 10 ba-la-mật, 4 đức
vô úy và 18 pháp của một vị Phật (*E 8.2, Phụ lục trg 100).
Trong mỗi lãnh vực kiến thức, khả năng suy tư của các ngài
đều nhanh chóng và kịp thời. Cũng giống như một mũi tên
nhọn trên một cây cung tốt sẽ xuyên qua dễ dàng tấm vải
mỏng, kiến thức của Phật Toàn Giác cách xa dễ dàng sáu
hạng quả vị khác. Bởi vì tâm của các ngài trong sáng và
tỉnh giác đến độ mà các ngài có thể biểu hiện Phép
Lạ Đôi. (Thần thông làm lửa và nước tuôn ra cùng một
lúc ở mỗi lổ chân lông). Và cho những ai còn thắc mắc,
chẳng có lý do nào khác ngoài việc quán hay hướng tâm, một
điều có thể khẳng định được.”
“Bạch
ngài
Nāgasena, nhưng quán là để tìm một cái gì chưa được
rõ trước khi quán.”
________________________________________________________________________
*V
8.2.4:
Mười ràng buộc (samyojana, fetters) cột chúng sinh vào
bánh xe sinh tử luân hồi: 1) thân kiến (sakkāya-ditthi, personality-belief);
2) hoài nghi (vicikicchā, skeptical doubt); 3) giới cấm thủ (dính
mắc vào lễ nghi và tụng kinh, sīlabbata-parāmāsa, clinging to
rules and ritual); 4) tham dục (kāma-rāga, sensuous craving); 5) sân
hận (vyāpāda, ill-will); 6) sắc ái (rūpa-rāga, craving for fine-material
existence); 7) vô-sắc ái (arūpa-rāga, craving for immaterial existence);
8) ngã mạn (māna,conceit); 9) phóng tâm (uddhacca, restlessness);
10) vô minh (avijjā, ignorance).
*E
8.2,
Phụ lục trg 100:
- 10 ba-la-mật: 1) Bố thí (dāna, generosity); 2) Giới (sīla, virtue);
3) Xuất gia (nekkhamma, renunciation); 4) Trí tuệ (paññā, wisdom);
5) Tinh tấn (viriya, energy); 6) Nhẫn nhục (khanti, patience); 7)
Chân thực (sacca, truthfulness); 8) Kiên định (adhitthāna, determination);
9) Tâm từ (mettā, loving-kindness); 10) Xả (upekkhā, equanimity).
- 18 pháp Phật (buddhadhammā): 1-3) Nhìn thấy quá khứ, hiện
tại và vị lai; 4-6) Thân, khẩu ý đúng mực; 7-12) Thiết lập
những gì sẽ không thể làm thối chi kẻ khác: những ý định,
giáo lý tiến hành với thiền định, tinh tấn, giải thoát
và trí tuệ; 13-14) Tránh ham vui và những gì có thểtạo nên
sự lố bịch, xung đột và chống đối; 15) thông suốt mọi
sự; 16) Làm bát cứ việc gì cũng có ý thức tỉnh giác; 17)
Làm bất cứ việc gì cũng có mục đích; 18) Không làm bất
cứ việc gì thiếu khôn ngoan và thiên lệch.
________________________________________________________________________
“Một
người
giàu có thể chăng bị gọi là nghèo chỉ vì không
có thức ăn chuẩn bị sẳn khi một khách du hành bất chợt
đến; một cây có thể chăng coi là cằn cỗi khi cây đầy
trái nặng trỉu mà chỉ vì chưa có trái nào rơi xuống đất.
Cũng như vậy, Đức Phật quả là vị thông suốt mọi sự
mặc dù rằng phải quán rồi mới có kiến thức.” (*V 8.2.5)
________________________________________________________________________
*V
8.2.5:
Kiến thức của Đức Phật là thâm sâu và nhiều vô
số kể ( như có lần Ngài nói “những điều ta đã
giảng dạy chỉ như là lá trong nắm tay ta, còn kiến thức
ta như lá trong rừng”; Ngài như người giàu có về vật dụng
để vật dụng ở trong kho, chỉ khi cần thứ nào thì vào
kho lấy ra. Quán ở đây nhanh như một niệm, hướng tâm đến,
suy nghĩ là có ngay. Theo Vi Diệu Pháp, một tâm khởi sinh, trụ
và diệt trong thời gian rất ngắn gọi là sát na tâm; ví dụ một nhãn thức thông thường có một tiến trình tâm
đi từ Hữu Phần trôi qua ... đến các sát na tâm tốc hành
và tâm đồng sở duyên gồm có tất cả 17 sát na và có rất
nhiều tiến trình tâm như vậy xẩy ra trong một chớp mắt.
Một sát na tâm (citta-kkhana, consciousness-moment), theo Chú Giải,
là một khoảng thời gian rất ngắn, bằng một phần tỷ của
một tia chớp. Về điều này, Đức Phật có dạy: “ Này
các tỳ-kheo, ta chẳng biết có gì nhanh hơn là sự thay đổi
của tâm.” Chú thích này do người dịch Việt ngữ viết
theo ngài Nyanatiloka (Manual of Buddhist Terms nd Doctrines – Buddhist
Dictionary, 4th Edition, edited by Nyanaponika).
________________________________________________________________________
3.
Devadatta xuất gia
“Bạch
ngài
Đại Đức, nếu Đức Phật thông suốt mọi sự và đầy
tâm từ, tại sao Ngài lại nhận Devadatta vào Tăng đoàn, rồi
vì Devadatta gây nên sự chia rẽ trong Tăng đoàn nên bị đọa
xuống địa ngục khoảng một Kalpa (một đời người)? (*E
8.3) Nếu Đức Phật không biết trước việc Devadatta sẽ làm
thì Ngài đã không thông suốt mọi sự và nếu Ngài đã biết
thì Ngài lại không có từ bi.”
“Thưa
Đại
Vương, Đức Thế Tôn vừa thông suốt mọi sự và vừa
có tâm từ bi. Chính bởi vì Ngài thấy sự khổ sở của Devadatta
có thể được giảm bớt nên Ngài mới nhận Devadatta vào
Tăng đoàn. Cũng giống như một người có thế lực giúp giảm
án từ tử hình xuống chặt tay và chân, nhưng người đó
chẳng chịu trách nhiệm về sự đau đớn và khổ sở mà
tội nhân phải chịu, hoặc cũng giống như một y sĩ tài giỏi
muốn cho bệnh nhẹ hơn bằng cách cho một liều thuốc xổ
mạnh, Đức Phật đã làm giảm sự đau khổ của Devadatta
bằng cách cho nhận vào Tăng đoàn. Sau khi chịu khổ trong địa
ngục cho hết đời người, Devadatta sẽ được thả ra và
sau đó tu hành để trở nên một vị Phật Độc Giác tên
là Atthissara.”
“Bạch
ngài
Nāgasena, thật là một ân đức lớn Đức Phật đã ban
cho Devadatta. Khi Devadatta lạc trong rừng rậm, Ngài chỉ đường
cho; khi Devadatta rơi xuống vực thẳm, Ngài đưa tay cứu vớt.
Nhưng, bạch Ngài Nāgasena, lý luận và nghĩa lý cho chuyện
này chỉ có thể được vạch ra rõ ràng do một vị thông
thái như ngài mà thôi!”
4.
Những nguyên nhân của động đất
“Bạch
ngài
Nāgasena, Đức Phật đã nói rằng có tám nguyên nhân
của một vụ động đất lớn. Nhưng chúng ta tìm thấy có
một nguyên nhân thứ chín được nhắc đến trong kinh điển.
(*E 8.4, Phụ lục trang 100). Khi Bồ Tát Vessantara thể hiện
bố thí vô lượng bằng cách cúng dường vợ và các con để
làm người giúp việc, rồi thì quả đất cũng rung chuyển.
Như thế, nếu lời Ngài nói là đúng thì lời trong kinh phải
sai.”
*E
8.4, Phụ lục trang 100 - Tám nguyên nhân của động đất:
1) Quả đất này được nước nâng đở, nước thì được
gió nâng đở, gió thì được không gian nâng đở. Gặp khi
gió lớn thổi mạnh và nước bị rung chuyển. Khi nước chuyển
động, đất sẽ rung chuyển. (Nước và gió thuộc tứ đại;
nước là yếu tố dính liền, gió là yếu tố chuyển động;
những yếu tố này hiện hữu ngay cả trong đá bị nấu chảy).
2) Các vị ở trong cõi thiên có thể làm đất rung chuyển
bằng định lực của họ.
3) Khi Đức Bồ Tát qua đời từ cõi trời Tusita, trong chánh
niệm và với chủ tâm, thụ thai trong lòng mẹ của Ngài, quả
đất rung chuyển.
4) Khi Đức Bồ Tát lọt lòng mẹ, trong chánh niệm và có chủ
tâm, quả đất rung chuyển.
5) Khi Như Lai đạt được giác ngộ viên mãn vô thượng, quả
đất rung chuyển.
6) Khi Như Lai chuyển pháp luân, quả đất rung chuyển.
7) Khi Như Lai, trong chánh niệm và có chủ tâm, lìa bỏ sự
sống, quả đất rung chuyển.
8) Khi Đức Phật nhập diệt vào Đại Niết Bàn, quả đất
rung chuyển.
“Thưa
Đại Vương, cả hai điều trên đều đúng cả. Việc bố
thí của ngài Vessantara được nhắc đến như là nguyên nhân
thứ chín của động đất là bởi vì đó là việc xảy ra
rất là hiếm hoi. Cũng giống như một con lạch khô cạn không
có tí nước nào không được gọi là con sông, nhưng gặp
lúc trời mưa thật lớn, con lạch trở nên con sông; cũng như
thế, phẩm vật bố thí của Vessantara thật độc đáo, ít
khi xảy ra, và vì lý do đó mà nó khác biệt với tám nguyên
nhân thông thường của một vụ động đất.
“Thưa
Đại
Vương, có bao giờ ngài nghe nói trong lịch sử tôn giáo
của chúng ta có hành vi mộ đạo nào mà có quả ngay trong
kiếp hiện tiền?”
“Bạch
ngài
Nāgasena, có bảy trường hợp như vậy: người trồng
hoa Sumana, người bà-la-môn Ekasātaka; người giúp việc trang
trại Punna, hoàng hậu Malikā, bà hoàng mẹ của Gopāla, người
nữ sùng đạo Suppiyā và người nữ nô lệ Punnā.”
“
Nhưng, thưa Đại Vương, có bao giờ ngài từng nghe là quả
đất rung chuyển một lần hoặc hai lần khi một phẩm vật
bố thí của các vị nói trên được cúng dường?”
“Bạch
ngài,
không có, trẫm chưa bao giờ nghe như vậy.”
“Thưa
Đại
Vuơng, bần tăng cũng vậy, chưa bao giờ nghe, dù rằng
bần tăng đã để ý, tận tụy học hỏi, chỉ trừ trường
hợp phẩm vật bố thí tuyệt vời của Vessantara. Thưa Đại
Vương, chẳng phải do sự cố gắng thông thường mà quả
đất rung chuyển. Chỉ khi nào mà đạo đức chính đáng thật
sâu nặng, chỉ khi nào mà sự tốt đẹp của hành động đến
độ tuyệt đối trong sạch, thì quả đất không còn được
nâng đở mới rung chuyển. Và, thưa Đại Vương, khi Vessantara
cúng dường phẩm vật bố thí, ngài đã cúng dường không
phải vì để được tái sanh vinh quang hơn, cũng chẳng phải
vì cho giàu có hơn trong tương lai, chẳng phải vì để nhận
lại được bất cứ cái gì, không phải để được khen ngợi,
cũng chẳng để có lợi lộc gì riêng cho mình mà việc bố
thí này duy nhất chỉ để có được tuệ vô thượng bồ
đề.”
5. Sức Mạnh của Sự Thực
“Bạch
Đại
Đức, đức vua Sīvi cúng dường hai con mắt của mình
cho người cầu xin và sau đó mắt mới lại mọc lên vào cỗ
cũ. Làm sao mà chuyện đó có thể xảy ra?”
“Thưa
Đại
Vương, chính là do sức mạnh của sự thực mà chuyện
đó có thể xảy ra. Cũng giống như khi những nhà mặc khải
thần linh tụng đọc sự thực coùó thể làm mưa rơi, làm
tắt cơn lửa cháy và giải được chất độc.
“Khi
nhà
vua đạo đức Asoka đứng giữa đám người trong tỉnh
Pātaliputta, ngài hỏi các vị cận thần: ‘Có chăng người
nào có thể làm nước sông Ganges vĩ đại này chảy ngược
dòng?’. Rồi một người gái điếm tên là Bindumatī, trong
đám đông, biểu diễn một hành động về sức mạnh của
sự thực. Và vào lúc đó, sông Ganges gầm lên, dòng nước
chảy ngược trở lại trước mắt mọi người. Đức Vua,
tràn đầy kinh ngạc, tìm ra người đàn bà là nguyên nhân
của sự việc đó và hỏi nàng: ‘ Với hành động gì mà
ngươi đã làm được việc đó?’. Nàng trả lời: ‘ Bất
cứ ai trả tiền cho con, là một bà-la-môn, người buôn bán
hay người giúp việc, con đều xem họ giống như nhau. Con không
thiên vị một ai, mà phục vụ người trả tiền cho con. Đó
là hành vi chân thực, là căn bản sức mạnh của sự thực
nhờ đó mà sông Ganges đã chảy ngược dòng’.
“Thưa
Đại
Vương, chẳng có nguyên nhân thông thường nào có thể
tạo nên những việc đó ngoại trừ sức mạnh của sự chân
thực chính là nguyên nhân của các việc khó tin đã xảy ra.
Và chẳng có lý do để giác ngộ Tứ Diệu Đế ngoài sức
mạnh của sự thực.”(*V 8.5)
________________________________________________________________________*V
8.5:
Trong 10 ba-la-mật (như được kể trong *E 8.2, Phụ
lục trg 100) có 2 ba-la-mật được áp dụng ở đây: đó là
Chân Thực (sacca) và Kiên Định (adhitthāna); hai ba-la-mật này
có thể làm giúp khởi sinh các hiện tượng đặc biệt cũng
như có thể giúp đạt được mục đích mà thông thường
không thể làm được. Một thí dụ về sức mạnh của sự
kiên định: trong các khóa thiền tập dài hạn, thiền sư để
ra những khoảng thời gian dài hơn thường lệ để thiền
sinh áp dụng yếu tố kiên định (adhitthāna) và nếu yếu
tố này đủ mạnh thì có sự tiến bộ vượt bực trong thiền
tập mà thông thường không có được.
6.
Vấn đề khó xử về thụ thai
“
Bạch ngài Nāgasena, Đức Thế Tôn có nói rằng thụ thai trong
bụng mẹ thì phải có ba nguyên nhân xảy ra cùng lúc: sự
giao hợp của cha mẹ, thời kỳ kinh nguyệt của mẹ và chúng
sinh sắp tái sinh. Tuy nhiên Ngài cũng nói rằng đạo sĩ Dukāla
dùng ngón tay sờ vào bụng người nữ đạo sĩ Pārikà rồi
thì em bé Sāma thụ thai. Nếu chuyện đầu là dúng thì chuyện
thứ hai phải sai.”
“
Thưa Đại Vương, cả hai chuyện đều đúng, ngài không nên
nghĩ rằng đã có sự vi phạm đạo hạnh trong chuyện sau.
Hai vị đạo sĩ trước khi lên núi tu vốn là vợ chồng. Vị
trời Đế Thích (Sakka) biết trước rằng cả hai vị đạo
sĩ khi già sẽ bị mù lòa, khốn đốn, nên khẩn khoản khuyên
hai đạo sĩ có một người con. Nhưng hai vị đạo sĩ muốn
giữ phẩm hạnh, từ chối việc giao hợp để sinh con, cho
dù là để cứu giúp đời họ. Vì thế vị trời Đế Thích
can thiệp để giúp việc thụ thai; hai vị đạo sĩ thấy việc
sờ bụng không đến nỗi vi phạm đạo hạnh nên đồng ý
và Sāma được thụ thai.”
7.
Sự tồn tại của Đạo Pháp
“Sau
khi
cho phép nữ giới vào tu, thọ giới tỳ-khưu-ni, Đức Thế
Tôn nói rằng giáo lý sẽ chỉ còn tồn tại năm trăm năm.
(E 8.7). Nhưng trước khi nhập diệt, Ngài nói với Subaddha
rằng:
________________________________________________________________________
*E
8.7:
Theo kinh sách Sri Lanka thì 5,000 năm, theo bản đại đức
Pesala dịch thì chỉ có 500 năm.
‘Chừng
nào các đạo hữu còn sống đời đạo hạnh thiêng liêng
trong sạch thì thế gian không mất các bậc A-la-hán.’ Hai
câu nói trên mâu thuẩn với nhau.”
“
Thưa Đại Vương, Đức Phật có nói hai câu trên; nhưng hai
câu khác nhau về từ ngữ và ý nghĩa. Một câu nói đến thời
hạn bao lâu giáo lý sẽ tồn tại trong khi câu kia nói về
sự thực hành của đời sống đạo hạnh; hai ý nghĩa thật
khác biệt. Khi nói năm trăm năm, Ngài chỉ thời gian giới
hạn cho giáo pháp tồn tại, nhưng khi nói với Subhadda, Ngài
nói về nội dung của giáo pháp. Nếu các Phật tử tiếp tục
thực hành năm yếu tố tinh tấn (Padhāna, Effort; *V 8.7), tha
thiết theo con đường Giới, Định, Huệ, sống đời phẩm
hạnh trong sạch, thì giáo pháp vinh quang của Ngài sẽ tồn
tại và càng kiên trì nhiều năm tới nữa. Thưa Đại Vương,
Phật Pháp có gốc gác, cốt tủy ở sự thực hành; nó vẫn
đứng vững chừng nào mà sự thực tập không thối chuyển.
Có
ba
cách để làm tiêu hủy giáo pháp: sự thối chuyển trong
sự phát triễn trí tuệ để đắc đạo, sự thối chuyển
trong việc thực hành đúng theo giáo pháp và sự thối chuyển
trong việc thay đổi hình thức y phục, tăng tướng, đi xa
giới luật. Khi trí tuệ ngừng phát triễn thì ngay cả khi
sống đúng theo phẩm hạnh cũng không có sự hiểu biết thấu
đáo về giáo pháp. Bởi sự thực hành thối chuyển, sự phổ
biến giới luật ngừng lại và chỉ còn có hình thức bên
ngoài. Khi hình thức bên ngoài ngừng thì truyền thống giáo
pháp bị cắt đứt.”
________________________________________________________________________
*V
8.7:
Theo chú thích của Pesala thì năm yếu tố tinh-tấn là
sự tin tưởng, sức khỏe tốt, trung thực, cố gắng và trí
tuệ. Tuy nhiên theo ngài Nyanatiloka (Buddhist Dictionary) thì chỉ
có bốn yếu tố tinh tấn: 1) cố gắng để tránh những gì
bất thiện (samvara-padhăna); 2) cố gắng vượt qua những gì
bất thiện (pahāna); 3) cố gắng phát triễn hành thiền (bhāvanā);
4) cố gắng duy trì các trạng thái thiện (anurakkhanā).
8.
Sự tịnh hảo của Đức Phật
“Nếu Đức Thế Tôn đã tiêu hủy tất cả những gì bất thiện
trong Ngài khi Ngài giác ngộ thì tại sao Ngài lại bị thương
tổn vì một mảnh đá do Devadatta ném tới? Nếu Ngài đã bị
đau, thế thì Ngài đã không giải thoát khỏi mọi điều ác,
bởi vì không có cảm thọ nào mà không do nghiệp (kamma). Mọi
cảm thọ đều có nguyên nhân từ nghiệp, chỉ do nghiệp mà
cảm thọ khởi sinh.”
“Không, thưa Đại Vương, không phải tất cả mọi cảm thọ
đều do nghiệp. Có tám nguyên nhân làm sinh khởi những
cảm thọ. Cảm thọ phát sinh bởi gió, bởi mật, bởi đàm,
bởi hổn hợp ba chất lỏng trong cơ thể, bởi nhiệt độ
thay đổi, bởi sự chi phối của tâm trạng, bởi những tác
động bên ngoài và bởi nghiệp. Bất cứ ai nói rằng ‘Chỉ
có nghiệp đè nặng lên chúng sinh” là đã bỏ quên bảy
nguyên nhân kia và đó là một sự sai lầm.
“Khi gió của một người bị xáo trộn, có một trong mười
cách để xảy ra: bằng sự lạnh, sức nóng, sự đói, sự
khát, ăn quá nhiều, đứng quá lâu, làm việc nặng quá sức,
chạy bộ, chữa bệnh, hoặc là nghiệp quả. Khi mật bị xáo
trộn, thì do một trong ba cách: sự lạnh, sức nóng và thức
ăn không thích hợp. Khi đàm bị xáo trộn thì do lạnh, nóng
hoặc do ăn và uống. Khi ba chất lỏng bị xáo trộn mà trộn
lẫn với nhau thì sẽ gây nên cơn đau khác biệt. Rồi thì
có những cơn đau phát sinh do mhiệt độ thay đổi, ảnh hưởng
của tâm trạng và những tác động bên ngoài. Cũng có sự
đau do nghiệp là nguyên nhân. Như vậy, thọ khổ do nghiệp
đem lại rất ít so với thọ khổ do các nguyên nhân khác.
Người
không
hiểu biết đi quá xa khi nói rằng mọi cảm thọ đều
do nghiệp làm phát sinh. Không ai có thể đoan chắc nghiệp
quả lớn hoặc nhỏ, nặng hoặc nhẹ, ngoài sự soi sáng của
Đức Phật. Và khi chân của Đức Phật bị trầy vì mảnh
đá, sự đau này do nguyên nhân thứ bảy là tác động bên
ngoài. Tuy nhiên, mặc dù Đức Thế Tôn không bao giờ thọ
khổ do nghiệp riêng của mình, Ngài cũng thọ khổ do một
trong sáu nguyên nhân kia.
Trong
kinh
Moliya Sīvaka, Đức Phật có nói rằng: ‘Này Sīvaka, có
những sự đau đớn phát sinh trong thế gian, do tình trạng
của chất mật trong chúng sinh, như mọi người thường biết.
Những người tu khổ hạnh hoặc Bà-la-môn có quan điểm cho
rằng tất cả cảm thọ phải do nghiệp đã làm từ trước;
họ đã đi quá xa sự hiểu biết của mình, ta khẳng định
rằng họ sai lầm.”
9.
Sự toàn hảo của Đức Phật
“Bạch
Đại
Đức, nếu Như Lai đã hoàn thành mọi sự dưới gốc
cây bồ đề, thế tại sao Ngài lại phải còn mất thêm ba
tháng nữa để nhập định?” (*E 8.9)
“Thưa
Đại
Vương, nhập định có nhiều lợi ích. Các bậc Như
Lai khi đã thành Phật đều nhập định để tán thán ân đức
mang lại cho nhân loại. Có 28 ân đức của sự nhập định:
bảo vệ thân thể, tăng tuổi thọ, tăng sức mạnh, đóng
hẳn tội lỗi, giữ cho không mất tiếng tăm, danh dự, hủy
đi sự bất bình và đem lại sự hoan hỷ, dứt sự sợ hãi,
tăng lòng tự tin, dứt trừ lười biếng, phát sinh tinh tấn,
dứt bỏ tham dục, sân hận và si mê, giảm bớt ngã chấp,
chận đứng tâm tranh biện, đưa về nhất tâm, làm tâm nhẹ
nhàng, thanh thản và làm tâm nghiêm chỉnh, phát sinh lợi lộc,
tăng trưỡng tôn kính, đem lại an vui, làm cho vừa lòng, chỉ
rõ bản chất các pháp hữu vi, chấm dứt tái sinh, đạt được
các quả của đời xuất gia. Chính vì Như Lai nghĩ đến các
ân đức đa dạng này mà Như Lai nhập định.
“Có
tất
cả bốn lý do để Như lai nhập định: 1) nhập thiền
để luôn được an lạc; 2) thiền làm tăng trưỡng các đức
tính cao quí; 3) thiền giúp đạt được các tầng thánh cao
hơn; 4) Chư Phật thường khen ngợi những ai an trú trong thiền.”
10. Xả bỏ hoàn toàn
“Đức Phật nói rằng, nếu Ngài muốn, Ngài có thể sống cho hết phần còn lại của một Kalpa ( kiếp người, 100 năm), nhưng Ngài cũng nói trước Ngài sẽ mất cuối ba tháng nữa. Làm thế nào cả hai lời này đều có thể cùng đúng được?”“Thưa Đại Vương, hai lời đó chỉ có nghĩa là quảng đời sống một kiếp người (Kalpa, life-span) và lời Ngài đề cao thần thông (*V 8.10). Đức Phật đã hoàn toàn giải thoát, không còn mong muốn một kiếp tương lai nào nữa, Ngài nói: ‘Ta chẳng tìm thấy vẻ đẹp nào trong phần nhỏ nhất của đời sống tương lai, cũng như ngay cả đến một phần rất nhỏ cũng thấy thối tha.”
________________________________________________________________________
*E 8.9: Giữa thời gian từ khi giác ngộ (Vesāka) đến thời pháp thứ nhất (Asāha) chỉ có hai tháng ( *V 8.9.1: nơi khác nói chỉ có bảy tuần ).
*V 8.10: Thần thông ở đây là Tứ như-ý-túc. Đức Phật có thể duy trì thọ mạng của mình cho đến khi Ngài muốn nhập diệt, nhưng Ngài đã không làm như vậy, chứng tỏ Ngài xả bỏ hoàn toàn.