Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

4. Những cư sĩcông hạnh lớn

06 Tháng Hai 201100:00(Xem: 11232)
4. Những cư sĩ có công hạnh lớn

THERAVĀDA - PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
CƯ SĨ GIỚI PHÁP
Tỳ kheo Giác Giới (Bodhisīla Bhikkhu) biên soạn
PL. 2550 - TL. 2006

Namo tassa bhagavato arahato sammāsam-buddhassa.
Kính lễ Đức Thế Tôn, Ưng Cúng, Chánh Biến Tri

CHƯƠNG I

CƯ SĨ TRONG PHẬT GIÁO

I.4. NHỮNG CƯ SĨCÔNG HẠNH LỚN

Người cư sĩ xây dựng ngôi chùa đầu tiên trong Phật giáo 

Vua Bimbisāra (Bình Sa Vương) - Khi thái tử Sĩ-đạt-ta thoát ly đời sống thế tục để đi tìm chơn lý, trở thành một đạo sĩ. Buổi đầu đạo sĩ Gotama (đó là danh gọi thái tử Sĩ-đạt-ta, khi Ngài xuất gia làm đạo sĩ) chưa khổ hạnh, Ngài khất thực để nuôi mạng. Ngài chọn trú xứ tại khu rừng tĩnh mịch gần thành Rājagaha (Vương xá) của xứ Magadha (Ma kiệt đà). Khi ấy vua Bimbisāra đang trị vì xứ sở này, kinh đô của vua là thành Rājagaha.

Một hôm đức vua trông thấy một vị đạo sĩ đang đi khất thực trên đường phố, với dáng vẻ uy nghiêm khiêm tốn, nhưng biểu hiện tính cách quí phái sang trọng. Đức vua lấy làm cảm kích nên sai người đi thăm dò. Biết được nơi trú ngụ của đạo sĩ Gotama, nhà vua bèn khởi giá cùng đám tùy tùng tìm đến viếng đạo sĩ hỏi thăm Ngài là ai? sanh trưởng ở xứ nào? đạo sĩ Gotama trả lời nhà vua về quê hương và dòng dõi xuất thân của Ngài. Nhà vua càng nể trọng đạo sĩ và khẩn thỉnh Ngài sau khi thành chánh quả, trở lại viếng thăm vương quốc Magadha. 

Đúng theo lời hứa, sau khi đắc quả Chánh Đẳng Giác, Đức Phật cùng đi với ngàn đệ tử A la hán từ Gāyā đến Rājagaha. Nơi đây, Ngài ngự tại điện Suppatittha, trong khu rừng kè (Laṭṭhivana).

Tin lành đến tai vua Bimbisāra và danh tiếng tốt đẹp của Đức Phật cũng đã được lan truyền cùng khắp vương quốc. Đức vua bèn dẫn theo đám đông quần thần đi đến viếng thăm Đức Phật

Nhà vua đến nơi cung kính đảnh lễ Đức Phật và ngồi xuống một bên, các quần thần của vua, có người đảnh lễ, có người xá chào, có người thăm hỏi xã giao với Đức Phật, rồi tất cả đều ngồi xuống. 

Đoàn Tăng sĩ một ngàn vị đi theo Đức Phật chính là nhóm đạo sĩ thờ lửa do Tôn giả Uruvelakassapa (Ca-Diếp) lãnh đạo, bây giờ đã trở thành đệ tử Phật.

Lúc ấy hội chúng tùy tùng của vua có sự suy nghĩ phân vân, giữa Đức PhậtTôn giả Ca-Diếp, ai là thầy, ai là đệ tử. Đức Phật biết được ý nghĩa của họ nên Ngài đã hỏi Tôn giả Ca-Diếp tại sao không thờ lửa nữa, để giải tỏa tâm tư của hội chúng. Tôn giả Ca-Diếp hiểu ý Đức Phật, liền giải thích rằng vì mình đã thấy được con đường đưa đến an vui giải thoát nên đã bỏ sự thờ lửa vì việc đó không bổ ích. Nói xong Tôn giả Ca-Diếp khấu đầu đảnh lễ dưới chân Đức Phậtxác nhận:

"Bạch Đức Thế Tôn, Ngài là Đạo sư của con, con là đệ tử của Ngài".

Nghe vậy tất cả mọi người đều hoan hỷ, dứt nghi nan. Đức Phật hiểu rõ tâm tư của hội chúng đã sẵn sàng lãnh hội pháp, Ngài giảng cho họ nghe tuần tự pháp thoại, làm cho họ được hân hoan

Nghe Đức Phật thuyết pháp, ánh sáng chân lý đã rọi đến mọi người. Đức vua và hội chúng tùy tùng đắc được quả vị Tu đà huờn; tất cả đều xin qui y Tam bảo, thành những cận sự nam. Sau đó, vua Bimbisāra cung thỉnh Đức Phậtchư Tăng vào hoàng cung thọ trai ngày hôm sau.

Hôm sau, Đức Phậtchư Tăng ngự đến hoàng cung thọ thực. Khi các ngài đã dùng xong, đức vua đảnh lễ Phật và ngỏ lời xin hiến dâng một nơi làm chỗ trú ngụ của Đức PhậtTăng chúng, đức vua lại muốn biết nơi nào là thích hợp cho ngôi tu viện. Đức Phật trả lời

'Một nơi vắng vẻ không xa cũng không gần thành thị, để những ai muốn, có thể đi đến dễ dàng, một nơi ban ngày không ồn ào, ban đêm yên tĩnh, khoảng khoát và kín đáo, nơi ấy sẽ thích hợp thiền tịnh".

Đức vua Bimbisāra nghĩ đến khu Trúc Lâm (Veluvana) của mình hội đủ những điều kiện thích hợp cho ngôi tu viện nên đã tác bạch hiến cúng Trúc Lâm này đến Đức Phậtchư Tăng. Đức Phật nhận lời, và cũng chính do duyên khởi này mà Đức Phật đã cho phép Tăng chúng nhận chùa. 

Khu Trúc Lâm từ đó có tên gọi là Veluvanārāma (Trúc Lâm Tự), và đây chính là ngôi tự viện đầu tiên trong Phật giáo do đức vua Bimbisāra hiến dâng. 

Người cư sĩ hộ độ Tam bảo tích cực 

Trưởng giả Anāthapiṇḍika (Cấp-cô-độc) - Tại kinh thành Sāvatthi (Xá-vệ) có một trưởng giả triệu phú tên Sudatta tính tình hào phóng, quảng đại. Ông có hạnh bố thí đặc biệt, thường xuyên phân phát giúp đỡ cho các kẻ nghèo không nơi nương tựa. Chính vì vậy mà người đời gọi tặng ông với mỹ danh Anāthapiṇḍika (Cấp-cô-độc) để nói lên công hạnh bố thí của ông.

Trưởng giả Anāthapiṇḍika gặp được Phật pháp do một nhân duyên kỳ ngộ. 

Một ngày nọ, trưởng giả Anāthapiṇḍika có việc đi từ Sāvatthī đến Rājagaha viếng thăm người anh vợ, thấy người anh đang bận rộn chuẩn bị một cuộc lễ, ông nghĩ là người anh mình sẽ tổ chức tiệc mừng, hoặc là cung nghinh đức vua ngự giá đến nhà. Khi hỏi ra mới biết người anh thiết lễ trai đàn cúng dường Đức Phậtchư Tăng vào ngày mai. Thoạt nghe danh từ "Buddha" (vị giác ngộ, vị Phật), ông Anāthapiṇḍika rộn lên niềm hoan hỷ và thiết tha muốn được diện kiến Đức Phật

Đêm đó, ông không thể chợp mắt, lòng cứ nao nao phấn khích; cuối cùng không chờ đến sáng nữa, ông đã ra đi trong đêm vắng hướng về Sītavana, khu rừng nơi Đức Phật đang trú ngụ. Một dạ xoa tên Sivakha đã dùng thần lực thu ngắn con đường cho ông, và những lúc ông toan thối chuyển cuộc hành trìnhsợ hãi đêm tối thì dạ xoa đã khuyến khích, trấn an ông lấy lại can đảmtiếp tục bước đi.

Cuối cùng, ông Anāthapiṇḍika cũng đã đến khu rừng Sītavana, có Đức Phật đang đi kinh hành ngoài trời, Ngài biết ông sẽ đến. Đức Phật gọi tên tộc của ông, Sudatta, và bảo ông đến gần Ngài. 

Ông Anāthapiṇḍika hết sức vui mừng được yết kiến Đức Phật. Kế đến Đức Phật thuyết pháp cho ông nghe. Sau khi nghe pháp, ông Anāthapiṇḍika đã chứng quả Dự lưu (Tu đà huờn), ông xin qui y Tam bảo. Ông đảnh lễ Phật và trở về nhà người anh. 

Khi Đức Phậtchư Tăng đến nhà người anh của ông Cấp-cô-độc khẩn khoản thỉnh cầu Đức Phật ngự về kinh thành Sāvatthī. Quê hương của ông, và ông cũng thỉnh Ngài nhập hạ ở đây. Đức Phật đã nhận lời, nhưng Ngài gợi ý với ông rằng: chư Phật chỉ thích ở nơi vắng vẻ. 

Ông Cấp-cô-độc thưa rằng mình đã hiểu ý Đức Phật. Ông từ giã gia đình người anh và trở về Sāvatthī vội vã. 

Về đến Sāvatthī, ông Cấp-cô-độc tìm một nơi thích hợp để cất chùa. Ông đã tìm được khu vườn của thái tử Jeta, là nơi lý tưởng, thích hợp. Ông đã mua lại khu vườn ấy với giá "Lát nền bằng vàng", nghĩa là trải vàng trên đất diện tích bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu.

Để có được diện tích rộng xây cất ngôi chùa Kỳ Viên (Jetavana), ông Cấp-cô-độc đã bỏ ra 18 koṭi tiền vàng (1 koṭi là mười triệu) để mua đất. Và bỏ ra 18 koṭi tiền vàng nữa để xây cất ngôi đại tự danh tiếng Jetavanamahāvihāra. Chính nơi này Đức Phật đã an cư mười chín lần trong cuộc đời Ngài, và phần lớn các bài pháp cũng được Đức Phật thuyết tại đây.

Trong sớ giải Aṅguttaranikāya và Dhammapada ghi rằng: ông Cấp-cô-độc hộ độ vật thực đến chư Tỳ kheo, mỗi ngày 500 vị; trong nhà ông luôn luôn có 500 chỗ ngồi được sắp đặt sẵn cho bất cứ vị khách Tăng nào từ xa đến không kip thời gian đi khất thực, ghé qua nhà ông để thọ trai. 

Đồng thời ông Cấp-cô-độc cũng dựng lên những ngôi phước xá ở bốn cổng thành Sāvatthī để bố thí đến những tân khách, những dân chúng nghèo khổ, tàn tật, cô độc không chỗ dung thân

Gia đình của trưởng giả Cấp-cô-độc có bốn người con, ba gái là tiểu thư Mahāsubhaddā, Cūlasubhaddā, và Sumānā, cùng một trai là công tử Kāla. Ba nàng tiểu thư đã tích cực giúp cha trong việc hộ độ cúng dường Tăng chúng; cả ba đều đắc thánh quả hữu học như cha mình, riêng về nàng Sumānā thì đắc Tư đà hàm quả vị cao hơn ông Cấp-cô-độc.

Công tử Kāla thì thời gian đầu lêu lổng, chỉ biết tiêu xài ăn chơi, không có niềm tin Phật pháp. Về sau, lúc người cha cho tiền thuê cậu ta đi nghe Đức Phật thuyết pháp, duyên lành chín muồi công tử Kāla chứng quả Dự lưu, đạt được niềm tin bất thối nơi Tam bảo. Người con dâu của ông Cấp-cô-độc, vợ của công tử Kāla, buổi đầu cũng thế, kiêu ngạocư xử tệ bạc với người trong gia đình nhà chồng; nhưng về sau nhờ nghe Đức Phật thuyết bài pháp về bảy hạng vợ, nàng dâu ấy đã cải tà qui chánh và trở nên hiền thiện. 

Trưởng giả Cấp-cô-độc là một người hào sảng hảo tâm, một người chủ gia đình gương mẫu, và là một đại thí chủ bậc nhất hộ độ Tăng chúng vào thời Đức Phật. Ông có vị trí quan trọng trong hàng cư sĩ Phật giáo với hạnh bố thí xả tài.

Đại tín nữ Visākhā - Một nữ cư sĩ cũng chỉ đắc quả Tu đà huờn như nhiều nữ cư sĩ khác vào thời Đức Phật, nhưng lại là một tấm gương sáng cho hàng cận sự nữ.

Nếu kể hàng thiện nam đại thí chủ là ông Anāthapiṇḍika (Cấp-cô-độc), thì trong hàng tín nữ đại thí chủ chính là bà Visākhā. Mặc dù vai vế và tuổi tác thì bà Visākhā nhỏ hơn ông Cấp-cô-độc, bởi em gái út của bà Visākhā là con dâu của ông Cấp-cô-độc.

Bà Visākhā là một nữ nhân đại phước, bà đứng đầu trong hàng tín nữ, được Đức Thế Tôn xác nhận địa vị tối thắng về hộ độ Tăng chúng, trong hàng cận sự nữ (Dāyikānaṃ aggā). 

Bà là con gái của trưởng giả Dhanañjaya, và là cháu nội của nhà đại phú Meṇḍaka ở thành Bhaddiya xứ Aṅga. Thời thơ ấu bà Visākhā sống với gia đình tại thành Bhaddiya xứ Aṅga. 

Vào năm bà được bảy tuổi, Đức Phật có lần ngự đến Bhaddiya cùng đoàn chư tăng. Bà được nhân duyên diện kiến Đức Phật và nghe Ngài thuyết pháp. Nghe pháp xong Visākhā chứng đắc thánh quả Dự Lưu

Thế rồi bà đã theo cha di cư đến sống ở Sāketa một thị trấn thuộc Kosala.

Bà Visākhā lập gia đình vào năm mười sáu tuổi. Trong sớ giải nói rằng bà là một phụ nữ hội đủ năm vẻ đẹp thanh xuân dù đến khi luống tuổi. Ngoài ra năm vẻ đẹp ấy, bà Visākhā lại còn có trí tuệ hơn người, sáng suốt trong mọi việc nhất là trong phạm vi tinh thần đạo đức. Điều đặc biệt không ngờ được là một mỹ nhân dịu dàng tha thướt như vậy mà lại có sức mạnh phi thường hơn cả nam nhân.

Gia đình chồng của bà là một nơi môn đăng hộ đối trong thành Sāvatthī, thế nhưng họ theo đạo Ni- Kiền-Tử, không có niềm tin Phật pháp, một điều nghịch lại với truyền thống tín ngưỡng của gia đình bên ruột của bà, và bà cảm thấy rất khó chịu vì bà là một thánh cư sĩ đệ tử Phật. Cha chồng của bà Visā-khā, trưởng giả Migāra, một tín đồ của nhóm đạo sĩ lõa thể, ông thường buộc nàng dâu phải phục vụ các đạo sĩ ấy khi họ được mời đến cúng dường.

Một lần, bà Visākhā lúc trông thấy các đạo sĩ lõa thể, bà đã tỏ thái độ không bằng lòng và bỏ vào trong, khiến ông trưởng giả tức giận kết tội nàng dâu vô phép. Bà Visākhā bình tĩnh thẳng thắn ứng đối. Ông cha chồng đuối lý đành đổi giận làm vui. Nhân cơ hội ấy bà đã xin phép cha chồng cho bà được tự do sinh hoạt theo truyền thống tín ngưỡng của bà. Trưởng giả Migāra chấp thuận.

Bà đã thỉnh Đức Phậtchư Tăng về nhà cúng dường. Đức Phật đã thuyết pháp sau bữa ăn. Ông trưởng giả Migāra ngồi sau bức rèm nghe trộm, nghe xong thời pháp ông giác ngộchứng quả Tu đà huờn. Ông bước ra đảnh lễ Đức Phật, và bày tỏ lòng tri ân vô hạn đối với nàng dâu quí đã dẫn dắt ông vào con đường giải thoát, và thật cảm động, kể từ ngày ấy ông xem nàng dâu Visākhā như một người mẹ. Cũng chính vì vậy mà đứa cháu nội đầu lòng của ông chào đời, ông đặt tên là Migāra, tên của ông. Về sau người ta gọi Bà Visākhā là Migāramātu (mẹ của Migāra) được hiểu theo hai nghĩa.

Nhờ khôn khéo, có trí tuệ và nhẫn nại, bà dần dần cảm hóa mọi người, và biến đổi gia đình bên chồng trở thành một gia đình Phật tửchánh tín, sống tràn ngập hạnh phúc

Bà Visākhā hằng ngày cúng dường chư Tăng tại nhà, luôn luôn có 500 vị Tỳ kheo. Buổi chiều, bà thường đến chùa nghe pháp, sau đó đi quanh chùa để xem chư Tăngcần dùng chi, luôn cả chư tỳ kheo ni.

Bà Visākhā là người hộ độ Tăng chúng tín cẩn và có tâm lo lắng an nguy của chư Tăng. Chính vì thế đã có nhiều sự kiện liên quan đến sự giới luật tăng già, bà được mời có mặt để can thiệp, đưa ý kiến hoặc thẩm xét, như vụ án tỳ kheo ni mẫu thân của đại đức Kumārakassapa chẳng hạn. 

Bà Visākhā đã xin Đức Phật chấp nhận cho bà tám đặc ân trong việc hộ độ chư Tăng tại Sāvatthī: 

1- Dâng y tắm mưa đến chư tăng, suốt đời bà.
2- Cúng dường những khách Tăng vừa mới đến.
3- Cúng dường các vị Tăng sắp rời khỏi.
4- Dâng thực phẩm đến những vị Tăng đau bệnh.
5- Dâng thực phẩm đến những vị Tăng nuôi bệnh.
6- Dâng thuốc men đến vị Tăng bị bệnh. 
7- Dâng cháo sáng đến chư tăng.
8- Dâng y đến chư tỳ kheo ni.

Đức Phật chấp nhận cho bà tám đặc ân này. Có một hôm bà Visākhā cùng người nữ tỳ đi đến chùa đảnh lễ Phật và nghe pháp. Khi đến cổng chùa bà cởi chiếc áo choàng đính ngọc quí giá, gói lại và giao cho người nữ tỳ cầm giữ vì bà nghĩ là mặc sang trọng trước mặc Đức Phật là không phải lẽ. Sau khi nghe pháp ra về, người nữ tỳ đã để quên lại áo choàng ấy ở chùa, Tôn giả Ānanda đã làm theo lời dạy của Đức Phật, nhặt cất giữ tạm để chờ trả lại cho chủ. 

Khi bà Visākhā hay rằng người nữ tỳ đã bỏ quên gói đồ trong chùa thì bà sai trở lại lấy nếu chưa có ai chạm đến. Người nữ tỳ trở lại chùa, và về trình sự việc ngài Ānanda đã tạm cất giữ. Bà liền đến hầu Đức Phậtngỏ ý muốn làm một thiện sự bằng số tiền bán chiếc áo choàng ấy, Đức Phật dạy xây cất một ngôi chùa ở cổng vào phía đông thành Sāvatthi. Bà rất hoan hỷ và tự thân mua lại chiếc áo choàng, rồi dùng số tiền ấy kiến tạo một ngôi chùa đặt tên là Pubbārāma (Đông Phương Tự) cúng dường đến Đức Phật.

Bà Visākhā sống thọ đến 120 tuổi. Bà có rất nhiều con cháu, tất cả đều hiếu thảo. Thật là một người có đầy đủ phúc lộc thọ.

Lương y Jīvaka - Một vị thầy thuốc tài giỏi, giàu tâm đạo, thường xuyên ở gần Đức Phật để chăm lo sức khỏe Ngài, và trị bệnh cho chư Tăng

Ông Jīvaka còn được gọi bằng một tên nữa là Jīvakakomārabhacca. 

Jīvaka là con trai của nàng Sālavatī, một kỹ nữ trong thành Rājagaha. Khi mới chào đời, bị bỏ rơi trên một đống rác bên đường, nằm trong cái thùng. Hoàng tử Abhaya con vua Bimbisāra, tình cờ đi ngang qua phát hiện được đứa bé còn sống nên mang về nuôi. Vì hài nhi "Còn sống" nên hoàng tử đặt tên là "Jīvaka", vì được hoàng tử nuôi nấng nên được gọi là "Komārabhacca". 

Lớn lên ông theo học nghề y với vị danh y Takkasilā hết bảy năm, và thành tài. Ông trở thành vị thầy thuốc giỏi, đặc biệt là khoa phẫu thuật. Sách ghi rằng ông đã hai lần thành công mỹ mãn cuộc giải phẫu cho một nhà triệu phú mắc bệnh nhức đầu kinh niên. Ông cũng từng được vua Bimbisāra cử đi đến xứ Ujjeni để trị bệnh cho vua Candappajjota, thành công

Lương y Jīvaka có duyên lành với Phật pháp, ông đã qui y Tam Bảochứng quả Tu đà huờn.

Sau khi vua Bimbisāra băng hà, Thái tử Ajātasattu lên ngôi, ông vẫn tiếp tục được lưu dụng, và ông đã có lần tiến dẫn vua Ajātasattu đến diện kiến Đức Phật ở tại khu rừng xoài Ambavana để nhà vua có dịp cải hối về tội ác giết cha soán ngôi, quay đầu hướng thiện trong Phật Pháp. Cũng nhờ vậy mà vua Ajātasattu bớt đi mặc cảm tội lỗitrở thành một Phật tử thuần thành. Chính nhà vua đã bảo trợ chư thánh Tăng kết tập kinh điển lần thứ nhất sau khi Đức Phật viên tịch ba tháng. 

Ông Jīvaka đã hiến khu rừng xoài của mình cho Đức Phậtchư Tăng, ông đã xây cất một tu viện nơi ấy vì thấy rằng Veḷuvana (Trúc Lâm) quá xa để ông đến chăm sóc sức khỏe của Tăng chúng

Mỗi ngày ông đến viếng thăm Đức Phật hai lần và chăm sóc sức khỏe cho Ngài. Ông cũng nhiệt tâm lo chữa trị cho Tăng chúng bất cứ vị tỳ kheo bị bệnh đều được ông điều trị, không hề xao lãng với phận sự, mặc dù ông rất bận rộn với công việc xã hội

Trong Luật tạngghi nhận một số vấn đềliên quan đến danh y Jīvaka.

Như việc ông đề nghị Đức Phật ban hành luật thu nhận người xuất gia vào Tăng chúng phải hạn chế những người mắc các thứ bệnh lây nhiễm. Nguyên nhân là thời đó có những người mắc bệnh hiểm nghèo, họ đã xuất gia làm tỳ kheo để được lương y Jīvaka điều trị miễn phí và tận tình (Vin.I.71).

Cũng theo lời yêu cầu của ông, nên Đức Phật đã cho phép các tỳ kheo hoạt động thể dục như đi bộ, quét nhà v.v... để có sức khỏe (Vin.II.119).

Ông Jīvaka được Đức Phật xác nhận là một cận sự nam được dân chúng kính mến nhất (aggaṃ puggalappasannānaṃ) (A.I.26).

Vua Pasenadi Kosala (Ba-Tư-Nặc) - Một vị vua mà tên tuổi gắn bó với cuộc đời hoằng pháp của Đức Phật, hơn các vị vua khác, vì ở Sāvatthī (Xá vệ) có hai ngôi chùa mà Đức Phật đã hai mươi lăm lần nhập hạ tại đó, mười chín lần tại Jetavanavihāra, sáu lần tại Pubbārāma.

Vua Pasenadi là vị vua xứ Kosala (Kiều Tát La) kinh đô của vua là thành Sāvatthī (Xá Vệ), sống cùng thời Đức Phật.

Ngài là con trai của vua Mahākosala, từ thuở nhỏ được học các học nghệ tại trường Takkasilā, nơi đào tạo những nhân tài hoàng tộc đương đại từ các xứ sở như thân vương Licchavī Mahali và thái tử dòng Malla là Malla Bandhula - sau trở thành thống soái của vua Pasenadi.

Từ Takkasilā trở về Kosala, phụ vương ngài rất hài lòng về tài năng của ngài qua nhiều môn nghệ thuật nên đã nhường ngôi vua lại cho ngài. 

Khi tước vị vương quyền, vua Pasenadi đem hết tài nghệ cùng với nhiệt tâm để điều hành vận nước được hùng cường, đồng thời nhà vua thực hiện chính sách bang giao tốt đẹp với các nước láng giềng, đức vua cũng làm phong phú đời sống nội tâm bằng cách tìm đến thân giao với các bậc hiền trí. 

Vua Pasenadi đã trở thành tín đồ Phật giáo trong thời kỳ đầu hoằng hóa giáo pháp của Đức Phật. Ngài là người thân tínphụng sự Đức Thế Tôn cho đến lúc mạng chung, mặc dù nhà vua không phải là vị thánh cư sĩ như vua Bimbisāra. 

Vua Pasenadi cùng chạn tuổi với Đức Phật, nhưng nhà vua hết sức tôn kính Đức Phật. Trong kinh mô tả mỗi lần vua đến viếng thăm Đức Phật, đã đảnh lễ thủ phục sát dưới chân Ngài và úp mặt trên đôi bàn chân của Ngài. 

Cũng có thể vì Đức Phật và vua Pasenadi cùng tuổi với nhau, do đó đã có những cuộc luận đàm diễn ra thân mật, và trung thực thẳng thắn. Trong Saṃ-yuttanikāya phẩm Tương Ưng Kosala, đã ghi lại gồm 25 giai thoại, mỗi giai thoại là một phương đạo đức do vua Pasenadi nêu lên vấn đề với Đức Phật hoặc Đức Phật đưa vấn đề giảng cho vua Pasenadi. Những đề tài bàn luận ấy có nhiều và khác biệt nhau. 

Đức vua tận tụy trong việc bảo vệ thanh danh của Đức Phật vàTăng chúng, áp đảo mọi hành động của kẻ xấu cố tình bôi nhọ Phật giáo, như trong vụ án nàng Sundarīnandā là điển hình. 

Đức vua cũng tích cực can thiệp những sự việc gút mắc có liên quan Tăng chúng nhằm để giữ vững sự trong sạch của Tăng đoàn giáo hội, như trường hợp của vị tỳ kheo ni mẫu thân ngài Kumārakassapa, hoặc như chuyện tỳ kheo Koṇḍadhāna. 

Trong giới luật của tỳ kheo có điều luật Ưng Đối Trị như việc tắm giỡn nước, cũng nhờ sự gợi ý của vua Pasenadi với Đức Phật. Hoàng cung vua nhìn thẳng ra dòng sông Aciravatī, một lần vua đứng trên sân thượng thấy các vị tỳ kheo tắm giỡn nước dưới sông không đẹp mắt. Nhà vua đã khéo léo bạch trình lên Đức Phật việc ấy, và Đức Phật nhân đó chế định học giới về sự giỡn nước của Tỳ kheo

Tuy đã trở thành đệ tử Phật nhưng vua Pase-nadi vẫn không bỏ được thói quen đảnh lễ những ngoại đạo sư khác. Nhà vua vẫn có sự ái mộkhoan dung đối với các giáo chủ ngoại giáo hay các đệ tử của họ. 

Vì chưa đạt được thánh tri kiến nên nhà vua có những tư tưởng lệch lạc với chánh pháp, đôi khi đã có những hành động sai lầm, suýt gây nên tội ác

Có lần một cuộc lễ tế thần phải giết thật nhiều súc vật và đồng nhi, mà chính vua Pasenadi cho xúc tiến và đích thân chuẩn bị chu đáo. May nhờ có hoàng hậu Mallikā của vua can ngănthuyết phục đức vua hãy đình chỉ tế đàn ấy để đi đến gặp Đức Phật

Một câu chuyện khác ghi lại rằng, đức vua vì luyến ái một phụ nữ khi ngài cưỡi ngựa dạo chơi trong kinh thành. Khi biết được nàng ấy đã có chồng, để chiếm đoạt người phụ nữ, nhà vua đã ra lệnh cho người chồng phải ra đi vào ban chiều để đem về cho được một loại hoa súng quí hiếm và đất sét trồng hoa súng ở một nơi cách xa kinh thành hàng trăm do tuần, thời hạn phải có mặt là ngày hôm sau. Nếu trễ thời hạn sẽ bị tội chết. Người đàn ông cố gắng trải qua cuộc hành trình, rạng sáng đã về đến thành nhưng cổng thành có lệnh vua phong tỏa không mở, người ấy sợ hãi lẩn trốn vào chùa Jetavana. Nhà vua suốt đêm cũng không an giấc được vì sự ái ố của mình. Sáng dậy, vua ra khỏi thành và đến Jetavana viếng thăm Đức Phật. Tình cờ gặp được người đàn ông ấy cũng đang ngồi hầu Đức Phật. Đức Phật nghe cả hai kể lại tâm trạng của mình, Ngài đã thuyết pháp giải tỏa sự phiền toái của đôi bên.

Vua Pasenadi vì ăn uống vô độ nên thường xuyên bị bệnh. Một lần vua đến thăm Đức Phật, Đức Phật khuyên nhà vua hãy tiết độ lại trong việc ăn uống, Ngài dạy cho vua một bài kệ làm điều răn về vấn đề ẩm thực. Vua Pasenadi đã thực hành theo và khỏe mạnh lại như xưa. Vua càng kính thương Đức Phật

Vua Pasenadi may mắn hơn các vị vua khác được nghe Đức Phật thuyết cho nghe rất nhiều bài pháp. Trong Saṃyuttanikāya, phẩm Kosalavagga ghi lại đầy đủ các bài pháp như vậy.

Đức vua cũng là một bậc đại thí chủ vào thời Đức Phật. Nhờ sự cố vấn của hoàng hậu Mallikā, vua đã tổ chức lễ cúng dường Đức Phậtchư Tăng thật long trọng, với 500 con voi cầm lọng đứng hầu Tăng chúng; đức vua tranh đua với dân chúng, cuối cùng thì dân chúng phải nhượng bộ không theo kịp. Cuộc đại thí này còn gọi là "Đại lễ vô song thí". 

Đức vua đã tỏ ra hào phóng, khi biết được vị đại thần Juṇha là người có tâm hoan hỷ trong cuộc bố thí của mình, vua bèn ban thưởng trọng hậu, đồng thời cho đại thần Juṇha làm vua bảy ngày tùy thích làm việc bố thí. Về phía vị đại thần Kāḷa, là người tỏ ra bất mãn với việc bố thí này của nhà vua, nên vua đã truất phế chức vụ và trục xuất ra khỏi vương quốc Kosala.

Theo sớ giải Jātaka thì vua Pasenadi có xây dựng một ngôi tịnh xá ở trước chùa Jetavana để cúng dường đến Đức Phật, ngôi tịnh xá này có tên là Rāja-gahārāma.

Vua Pasenadi băng hà trước ngày Đức Phật viên tịch, thọ 80 tuổi. Nhà vua đã chết trong cảnh cô đơn, tại một ngôi nhà trọ ở ngoại thành. 

Người cư sĩ hộ pháp quan trọng 

Vua Asoka (A-Dục vương) - Một vị đại đế của Ấn Độ sau thời Đức Phật, một vị cư sĩ đại hộ pháp mà có lẽ chưa có vị vua nào sánh bằng, từ trước tới nay. Tên tuổi của vị vua này đã gắn liền với nền nghệ thuật, văn hóa Phật giáo.

Hoàng đế Asoka xuất hiện vào thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, khoảng 200 năm sau khi Đức Phật níp bàn.

Ngài là con của vua Bimbisāra xứ Campala. Ngài có một người em ruột nữa là hoàng đệ Vitasoka. Về sau hoàng đệ Vitasoka xuất gia vào Phật giáo và đắc A la hán

Thuở thiếu thời, hoàng đế Asoka không được vua cha yêu chuộng bởi ngài có thân hình xấu xí, tay chân thô kệch nhám nhúa, mặc dù tài năng vượt trội các vị hoàng tử khác - anh em một cha khác mẹ với ngài. 

Thời ấy trong nước thường có loạn lạc do các xứ lân cận xâm lấn. Vua cha, vì không ưa hoàng tử Asoka nên luôn ban lệnh cho hoàng tử đi chinh phạt với một lực lượng quân đội yếu kém, binh mã và quân nhu tồi tệ. Thế nhưng do tài thao lược, hoàng tử Asoka lúc nào cũng đem chiến thắng trở về

Vua cha của hoàng tử Asoka còn có nhiều người con khác, trong số đó có một hoàng tử mà vua cha rất yêu chuộng và đã chọn làm Đông cung Thái tử để nối ngôi, hoàng tử ấy tên là Susima. Nhưng hoàng tử Susima tính tình kiêu căng và hung dữ nên không được lòng của văn võ triều thần. Họ cùng nhau chờ dịp sẽ lập hoàng tử Asoka lên ngôi.

Thế rồi cơ hội cũng đến, ngày kia xứ Takkasilā nổi loạn, vua Bindusāra sai đông cung Susima mang đại quân dẹp loạn, nhưng thất bại. Hay tin chẳng lành, vua cha thọ bệnh và truyền lịnh hoàng tử Asoka đem binh tiếp ứng cho đông cung Susima.

Các vị đại thần đã xúi giục hoàng tử Asoka cáo bệnh không xuất chinh. Các đại thần thấy vua Bin-dusāra bệnh càng lúc càng trầm trọng, bèn vào triều tâu vua xin nhường ngôi lại cho hoàng tử Asoka, và họ đã tự an bày tôn hoàng tử Asoka lên ngôi, dù vua cha không chấp nhận. Vua Bindusāra quá tức giận thổ huyết mà băng hà.

Hay tin ấy, đông cung Susima tức tốc kéo binh về thành Pātaliputta để dành lại ngôi vua. Vua Asoka lập kế đã tiêu diệt được đông cung Susina.

Sau khi diệt được cái gai Susima, vua Asoka bèn bắt giết những quan thần mà trước đây đã khinh thường mình vì thân hình xấu xí.

Nhà vua lại cho lập ra cảnh Địa Ngục Bồng Lai để hành hình tội nhân, bên ngoài chốn ấy thật hữu tình ngoạn mục chẳng khác Bồng lai tiên cảnh, nhưng bên trong thì cảnh tượng rùng rợn như chốn địa ngục, có rất nhiều cách hành hình thật dã man

Mặt khác, vua Asoka lại là vị vua hiếu sát. Nhà vua đã cất binh chinh phạt các nước chư hầu, đã gây nên cảnh tang thương chết chóc kinh hoàng. Trong cuộc chinh phạt ấy, thê thảm nhất là xứ Kaliṅga, mười muôn quân sĩ bị tử trận, mười lăm muôn quân khác bị bắt làm tù binh đem lưu đày, và vô số dân chúng đã bị sát hại, thây chất thành núi, máu chảy thành sông.

Sự hiếu sát và tính hung bạo của nhà vua làm cho dân chúng ta thán sợ hãi, họ đặt tên nhà vua là Caṇḍāsoka (ác vương Asoka).

Thế rồi một ngày kia, có vị tỳ kheo trẻ tuổi tên là Samudda vào thành Pātaliputta để khất thực, vô tình đi ngang qua chốn địa ngục bồng lai, vì mỏi mệt và thấy cảnh mát mẻ hữu tình nên vị ấy dừng chân ngồi nghỉ mát. Bọn cai ngục bắt giữ tỳ kheo Samudda và giam vào đại lao. 

Tỳ kheo Samudda đã tranh thủ thời gian ấy, tinh tấn thiền định, lấy cảnh khổ luân hồi làm đề tài quán niệm, nỗ lực ngày đêm bất thối chuyển, vài ngày sau vị ấy chứng đắc A la hán quả với thần thông

Vào ngày thứ tám, bọn cai ngục dẫn Ngài ra hành hình, bỏ vào chảo dầu và đốt lửa. Ngài Samud-da ngồi nhập định thản nhiên trong chảo dầu không hề hấn gì. Đức vua Asoka được báo tin lạ lùng ấy, vội vã ngự đến ngục thất để xem sự tình. Lúc ấy, Ngài Samudda bay lên ngồi kiết già trên không trung. Đức vua sanh tâm kinh sợ liền chắp tay đảnh lễ đại đức Samudda và yêu cầu đại đức Samudda giải thích điều kỳ diệu này. 

Đại Đức Samudda bèn thuyết pháp cho nhà vua nghe, và khuyên nhà vua hãy bỏ dữ về lành, mở lòng từ bi bác ái, thương xót thần dân, đem lại an vui hạnh phúc cho muôn loài; đồng thời Ngài cũng nhắc cho nhà vua biết lời tiên tri của Đức Phật cách đây 200 năm, về nhà vua sẽ là bậc thánh vương hộ pháp có nhiều công đức trong việc phụng thờ xá lợitruyền bá chánh pháp trong thế gian.

Nghe được lời giảng dạy cao quý, đức vua Asoka xúc động mãnh liệt và khởi lên niềm tịnh tín nơi Tam Bảo, bèn quì xuống tác bạch rằng: 

"Bạch Đại Đức, từ trước đến nay trẫm đã gây nhiều ác nghiệp. Nay trẫm xin thành tâm sám hối các tội để phục thiện. Trẫm xin qui y Phật - Pháp - Tăng để tạo những việc lành kể từ ngày nay đến trọn đời".

Đại Đức Samudda phán rằng: "Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay! rồi Ngài biến đi mất. 

Vua Asoka liền hạ lịnh phá hủy chốn địa ngục bồng lai ấy, và bắt đầu từ đấy, nhà vua tận tâm hộ phápdạy bảo dân chúng sống đạo đức theo tinh thần Phật giáo. Thần dân trong nước thấy vua thay đổi tâm tính và trở nên độ lượng khoan hồng, bèn tặng cho vua mỹ danh là Dhammāsoka (Pháp Vương Asoka hay Minh Vương Asoka).

Nhờ dựa trên tinh thần Phật giáo, đem chánh pháp áp dụng vào chính sách cai trị của vua Asoka nên đất nước Ấn Độ bấy giờ được thái bình thạnh trị, hùng cường vào bậc nhất.

Đức vua Asoka vì đã thống nhất toàn lãnh thổ Ấn Độ, thành vị đại đế, quyền hành rộng lớn bao gồm các nước chư hầu. Nên sau khi qui y theo Phật giáo rồi, đức vua tự thân đến thành Rājagaha thỉnh trọn phần Xá Lợi Phật được an vị trong thánh tháp mà vua Ajātasattu kiến tạo, để mang về Pātaliputta; đức vua cũng ra lịnh cho sáu vị vua xứ chư hầu mang nạp tất cả Xá Lợi Đức Phật trong xứ của họ đã được chia sớt tại Kusinārā sau lễ trà tỳ kim thân Đức Phật. Sau đó đức vua Asoka đã khiến thợ làm 84.000 hộp nhỏ bằng vàng chạm trổ khéo léo và 84.000 cái bình lớn hơn cũng bằng vàng, rồi phân chia Xá Lợi làm 84.000 phần đều nhau và an trí vào 84.000 cái hộp nhỏ, đặt vào 84.000 cái bình lớn. Xong việc, đức vua cho phân phát khắp nơi xứ Ấn Độ. Chỗ nào cũng xây ngôi tháp để tôn trí Xá Lợi

Cách thức qui định là chỗ có dân cư từ 10 triệu, xây tháp Xá Lợi, bốn chỗ động tâm, xây tháp Xá Lợi, mỗi nơi nào có sự tích liên quan đến Đức Phật khi Ngài còn tại thế, xây tháp Xá Lợi.

Đức vua Asoka khuyến khích hoàng đệ Vitasoka xuất gia theo Phật pháp, đồng thời cũng cho hoàng tử Mahinda và công chúa Saṅghamittā gia nhập giáo hội tỳ kheo, tỳ kheo ni, cả ba vị này đều chứng quả A la hán.

Đức vua Asoka đã xây dựng vô số kiến trúc đền thờ có chạm trổ những sự tích Đức Phật và khắc chỉ dụ của vua trên những bia đá khuyên bảo dân chúng sống theo Phật pháp, lại dựng cột trụ nơi bốn thánh địa động tâm để lưu dấu tích: Đản Sanh, Thành Đạo, Chuyển Pháp Luân, Níp Bàn của Đức Phật

Đức vua Asoka sau khi cho hai người con xuất gia, đã trở thành quyến thuộc thừa kế Phật giáo nên càng tịnh tín Tam Bảo. Mỗi ngày đức vua xuất ra 500.000 đồng Kahāpana cúng dường tứ sự đến Tăng chúng đầy đủ dồi dào. Cũng vì thế mà các nhóm tu sĩ ngoại đạo đã xâm nhập vào Tăng đoàn Phật giáo sống lẫn lộn với các vị tỳ kheo chân chánh để thọ hưởng lợi lộc vì ở ngoài họ bị thiếu thốn. Họ gia nhập hàng Tăng chúng nhưng vẫn có sở hành phi pháp tà kiến. Do đó, nội bộ chư Tăng bị xáo trộn không thể hành Tăng sự với nhau được, tình trạng kéo dài suốt bảy năm. Sau đó, chư tỳ kheo trình sự kiện này cho đức vua biết. 

Đức vua Asoka có đức tin Phật pháp, thấy mình phải có trách nhiệm chấn hưng Phật giáo, nên đức vua đã học hỏi chánh pháp từ vị Thánh Tăng Mog-galliputtatissa. Thế rồi đức vua thỉnh mời tất cả chư tỳ kheo trong thành họp hội tại chùa Asakārāma tổ chức một cuộc vấn đạo. Đức vua làm giám khảo sát hạch pháp luật từng vị tỳ kheo do chư Trưởng lão làm hội đồng chứng minh. Cuối cùng qua cuộc thanh lọc, đức vua đã loại ra được 60.000 vị tỳ kheo giả mạo, cho hoàn tục thành người cư sĩ

Khi Tăng chúng đã được thanh lọc, Trưởng lão Moggalliputtatissa họp Tăng 6 triệu tỳ kheo để hành Tăng sự Uposatha. Ngài đã chọn ra 1000 vị tỳ kheo A la hán tuệ phân tích, thông thuộc tam tạngchú giải để kết tập kinh điển. Đức vua Asoka bảo trợ cho kỳ kết tập này. Đây là kỳ kết tập tam tạng lần thứ ba, vào năm Phật lịch 235.

Đức vua Asoka không những đã hộ độ chư Tăng phát triển Phật giáo trong nước, mà còn hỗ trợ Tăng truyền bá Phật giáo sang các nước lân cận. Vào năm Phật lịch 236, sau khi kết tập kinh điển, Ngài Moggalliputtatissa biết được Phật giáo sẽ được hưng thịnh ở ngoại quốc chớ không tại Ấn Độ, nên Ngài đã cử chư trưởng lão đi truyền bá Phật giáo sang các xứ lân bang, gồm có chín đoàn. Đức vua Asoka rất quan tâm và giúp đỡ chín đoàn sứ giả được thuận lợi đi đến các xứ để truyền đạo

Đức vua Asoka là bậc cư sĩ đại hộ pháp với những công trình như vậy, và cho đến cuối cuộc đời, nhà vua vẫn còn nghĩ đến việc cúng dường Tam bảo bằng cách để lại di ngôn cho các quan thừa hành dâng hết cõi đất Diêm Phù (Ấn Độ) đến Tam bảo. Các quan phải xuất quốc khố mua lại giang sơn cho vị tân vương. 

Xét về lòng tịnh tín bất động đối với Tam Bảo thì vua Asola không bằng trưởng giả Anāthapiṇḍika và đại tín nữ Visākhā, vì hai vị này là bậc thánh Tu đàhuờn. Nhưng nói về công trình chấn hưngtruyền bá Phật giáo thì đức vua Asoka vẫn chiếm ưu thế hơn.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29908)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27192)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21783)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22248)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23626)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20447)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20062)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21955)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24776)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19016)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24789)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 31006)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24010)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27784)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26548)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21363)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23244)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38167)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18812)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20001)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19060)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23190)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23903)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22834)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22942)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29605)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20654)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18731)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15856)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18872)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19702)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20174)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19967)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18141)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22980)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34201)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16442)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16942)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39291)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26116)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20123)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18871)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24090)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29164)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22917)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30982)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21029)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26875)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20692)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26277)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23351)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19837)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24699)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30054)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20242)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20425)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15163)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15846)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23924)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant