Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

5 – Những ảnh hưởng của thái độ nghiệp báo

06 Tháng Hai 201100:00(Xem: 9427)
5 – Những ảnh hưởng của thái độ nghiệp báo

NGHIỆP BÁO
Giới Thiệu Tổng Quát
Tác giả: Alexander Berzin - Chuyển ngữTuệ Uyển

5 – NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA THÁI ĐỘ NGHIỆP BÁO

Phật giáo, giống như khoa học, dạy rất nhiều trong những dạng thức nhân quả. Vì thế, nếu bị lèo lái bởi nghiệp báo – sự thúc đẩy này – chúng ta làm những việc, nói những điều, và suy nghĩ những thứ gì đấy, sau đó sẽ có một kết quả. Nghiệp báo không nói quá nhiều về ảnh hưởng của thái độ chúng ta đối với những người khác – mặc dù, dĩ nhiên, nó thật sự tác động trên những người khác. Đây là bởi vì, một cách thật sự, ảnh hưởng trên những người khác của những gì chúng ta thực hiện đối với họ là tùy trên người ấy, đến một sự phạm vi lớn. Một số ảnh hưởng trên người khác của những gì chúng ta thực hiện trên họ là qua những nhân tố vật lý mà thôi: bạn đấm ai đấy và làn da bị thâm tím. Đó chỉ là nhân quả vật lý thân thểchúng ta không đang nói điều ấy với nghiệp báo. Nhưng ảnh hưởng có trên người kia trong những dạng thức họ trãi qua kinh nghiệm như thế nào đối với những gì chúng ta nói hay làm đối với họ, điều ấy tùy họ, có phải không? Chúng ta có thể nói điều gì đấy rất độc địa đến ai đấy, thí dụ thế, và cảm xúc mà họ nhận được có thể rất tổn thương; ho có thể rất khó chịu. Nhưng họ cũng có thể nghĩ rằng chúng ta hoàn toàn là những kẻ ngu ngơ ngốc nghếch, và vì thế họ không tin chúng ta và không tiếp nhận chúng ta một cách nghiêm chỉnh. Hay họ có thể không thậm chí không nghe chúng ta hay họ nghe chúng ta một cách sai lầm. Tâm tư họ có thể đã bị bận tâm với điều gì khác, thí dụ vậy. Do thế, thậm chí nếu chúng ta có những ý định dữ dội thật sự làm tổn thương cảm xúc của người ấy, không có gì bảo đảm rằng nó sẽ thật là gì – mặc dù rõ ràng giáo huấn Đạo Phật dạy rằng chúng ta cố gắng không làm tổn thương bất cứ ai. Nhưng điều ấy không liên hệ đến nghiệp báo ở đây.

Khi chúng ta nói về những kết quả nghiệp báo về điều gì ấy, nó là những kết quả nghiệp báo mà tự chúng ta sẽ nếm qua như một kết quả của hành vi trong sự đẩy mạnh này, một lối bắt buộc, với sự thôi thúc của nghiệp báo.

Những ảnh hưởng gì trong chính chúng ta? Một trong những ảnh hưởng – và điều này rất giống với những gì khoa học Tây phương nói – là chúng ta điều kiện hóa chính mình để suy nghĩ trong một cách nào đấy, nói một cách nào đấy, và hành động trong một cách nào đấy, vì thế nó bồi đắp một khuynh hướng để lập lại cung cách của thái độ ấy. Và như một kết quả của ý định ấy để lập lại cung cách của thái độ ấy và cũng là một khả năng để lập lại hành vi ấy- chúng ta cũng làm một sự khác biệt nào đấy giữa những khả năng và những khuynh hướng , mặc dù không nhất thiết để đi vào chi tiết về điều ấy – như một kết quả của chúng, chúng ta muốn lập lại hành vi kia.

Nó thật sự sản sinh ra điều gì, ý định kia hay khả năng nọ? Ý định sản sinh một cảm xúccảm giác muốn đi tới người ấy và ôm người ấy, thí dụ thế, hay cảm thấy muốn đi tới gần người nọ và nói một điều gì đấy bất tịnh. Và rồi thì, khi chúng ta cảm thấy muốn làm điều ấy, dĩ nhiên, chúng ta có sự lựa chọn thực hiện điều ấy hay không. Đấy là một điểm rất quan trọng, để nhận thấy rằng chúng ta có sự lựa chọn để thực hiện những gì chúng ta cảm thấy muốn hành động hay không. Nhưng nếu chúng ta quyết định rằng chúng ta sẽ làm việc ấy, hay nếu chúng ta ngay cả không quyết định sẽ làm điều ấy hay không, chúng ta chỉ thể hiện, thế thì cấp độ kế tiếp là nơi mà nghiệp báo biểu lộNghiệp báo là sự thúc đẩy, sự lèo lái, sự cưỡng bách mà với nó chúng ta thật sự tiến hành việc ấy.

Trong trường hợp ấy, có nhiều thứ khác chín muồi từ những xu hướng này. Một thứ mà một cách căn bản cũng là nội dung của những gì chúng ta trãi qua hay kinh nghiệm. “Nội dung” (content) là một chữ hơi rộng; tôi nghĩ là chúng ta phải hơi rõ ràng hơn. Ở đây, thí dụ, điều phải làm là gặp gở người kia không gặp mặt người nọ. Nó cũng liên hệ cung cách mà người ta hành động đối với chúng taChúng ta phải hết sức cẩn thận về việc chúng ta nói thế nào, nhằm để được chính xác hơn. Nghiệp lực của chúng ta không là nguyên nhân làm cho người kia la hét đến chúng ta – họ la hét với chúng ta như một kết quả của những khuynh hướng mà họ phải la hét đối với người ta. Nhưng nghiệp lực của chính chúng ta là chịu trách nhiệm để nếm mùi những người khác la hét đối với chúng ta.

Dĩ nhiên, điều ấy không phải là một vấn đề dễ dàng lắm để thấu hiểu, nhưng chúng ta nghĩ trong cung cách của việc tiếp cận một sự thấu hiểu về điều ấy với một thí dụ. Nếu một đứa bé đang mang những tấm tả và làm bẩn tấm tả, thế thì đứa bé phải sống trong hoàn cảnh; đứa bé phải sống với tình trạng bẩn thỉu mà nó làm ra. Hãy để qua một bên toàn bộ vấn đề là có ai đấy thay tả cho đứa bé, nhưng điểm ở đây là nếu bạn tạo nên một tình trạng bẩn thỉu, thì bạn phải nếm mùi hay lĩnh nhận nó hay phải trãi qua với sự bẩn thỉu ấy. Chúng ta tạo nên tình trạng hổn độn trong đời sống, và khi cuộc sống đi tới, chúng ta phải chịu càng nhiều lộn xộn bừa bộn hơn; một cách căn bản, nó hoạt động như thế. Một cách rõ ràng hơn, chúng ta hành động trong một cách nào đấy đối với những người khác, thì chúng ta sẽ lĩnh nhận hành vi của người khác trong một cung cách nào đấy đối với chúng ta. Nhưng một nguyên tắc khác rất quan trọng ở đây với nghiệp báo là điều này không hoạt động một cách lập tức. Chúng ta có thể nói với một cách rất thân ái và nhẹ nhàng đối với ai đấy, nhưng họ vẫn rất cuồng nộ, la lối đối với chúng ta với sân hận.

Điều này là tại sao phải thấu hiểu nghiệp báo một cách thật sự, chúng ta phải đem toàn bộ sự thảo luận về tái sinh, điều ấy phải cần một thời gian vô cùng lâu dài trước khi chúng sản sinh một ảnh hưởng, và chúng có thể không phát sinh một tác động trong đời sống hiện tạiThực tế, hầu như chúng không bao giờ (có tác dụng trong hiện kiếp). Điều ấy thật không có gì khủng khiếp để chúng ta như những người Tây phương thừa nhận. Đối với một số người dường như Đạo Phật nói rằng, “Hãy hiền lương trong kiếp sống này và trong kiếp tới, bạn sẽ trãi qua những kết quả trên thiên đàng; nếu xấu xa và, kiếp sau, bạn sẽ phải nếm mùi những kết quả nơi địa ngục.”

Chúng ta phải thẩm tra điều này một cách thật sâu sát: Có phải Phật giáo nói cũng giống như thế, hay nó là khác? Đấy không phải là một chủ đề dễ dàng, nó là một đề mục rất phức tạp, bởi vì để thật sự hiểu về nhân quả nghiệp báo, chúng ta cần thấu hiểu tái sinh – khái niệm của Phật giáo về tái sinh, không phải quan điểm tái sinh phi Phật giáo. Ai liên lụy đến một nguyên nhân nghiệp báo và ai phải nếm mùi kết quả của nó? Có phải có một “cái tôi” được tưởng thưởng hay bị trừng phạt.

Nhưng hãy bỏ qua một bên vấn đề tái sinh và ai lĩnh nhận nó qua một bên, như chúng tôi đã đề cập lúc bắt đầu, Đạo Phật không nói về một hệ thống của thưởng phạt căn cứ trên sự vâng lời luật lệ. Phật giáo không nói về sự sống này là một loại thử thách hay kiểm nghiệm nào đấy, và chúng ta sẽ đón nhận những kết quả của kiểm nghiệm trong kiếp sống tới của chúng ta. Nó chỉ đơn giản nói rằng mọi thứ cần một thời gian dài để sản sinh tác động của chúng. Chúng ta có thể thấy điều ấy trong dạng thức của môi trường. Chúng ta hành động trong một cách nào đấy và nó sản sinh những ảnh hưởng trong đời sống của chúng ta, nhưng nó sẽ sinh sản những tác động ghê gớm nhiều hơn trong đời sống của những thế hệ tương lai. Nó là điều gì tương tự như thế.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22406)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16068)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15068)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 19054)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14491)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18670)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14485)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13647)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13594)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11896)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13317)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13719)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13985)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13297)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15066)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16209)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11146)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16497)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11979)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17657)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12925)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13755)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12910)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14914)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16437)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13194)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12148)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12837)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12960)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12841)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14242)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14178)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16533)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12420)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14426)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11375)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11076)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13235)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13933)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13219)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13051)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13548)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12773)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10281)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 14025)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10265)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13765)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16324)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 12042)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 13030)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11710)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12727)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10851)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11041)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10986)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11938)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12824)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11127)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12673)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11383)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant