Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

5 – Những ảnh hưởng của thái độ nghiệp báo

06 Tháng Hai 201100:00(Xem: 9429)
5 – Những ảnh hưởng của thái độ nghiệp báo

NGHIỆP BÁO
Giới Thiệu Tổng Quát
Tác giả: Alexander Berzin - Chuyển ngữTuệ Uyển

5 – NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA THÁI ĐỘ NGHIỆP BÁO

Phật giáo, giống như khoa học, dạy rất nhiều trong những dạng thức nhân quả. Vì thế, nếu bị lèo lái bởi nghiệp báo – sự thúc đẩy này – chúng ta làm những việc, nói những điều, và suy nghĩ những thứ gì đấy, sau đó sẽ có một kết quả. Nghiệp báo không nói quá nhiều về ảnh hưởng của thái độ chúng ta đối với những người khác – mặc dù, dĩ nhiên, nó thật sự tác động trên những người khác. Đây là bởi vì, một cách thật sự, ảnh hưởng trên những người khác của những gì chúng ta thực hiện đối với họ là tùy trên người ấy, đến một sự phạm vi lớn. Một số ảnh hưởng trên người khác của những gì chúng ta thực hiện trên họ là qua những nhân tố vật lý mà thôi: bạn đấm ai đấy và làn da bị thâm tím. Đó chỉ là nhân quả vật lý thân thểchúng ta không đang nói điều ấy với nghiệp báo. Nhưng ảnh hưởng có trên người kia trong những dạng thức họ trãi qua kinh nghiệm như thế nào đối với những gì chúng ta nói hay làm đối với họ, điều ấy tùy họ, có phải không? Chúng ta có thể nói điều gì đấy rất độc địa đến ai đấy, thí dụ thế, và cảm xúc mà họ nhận được có thể rất tổn thương; ho có thể rất khó chịu. Nhưng họ cũng có thể nghĩ rằng chúng ta hoàn toàn là những kẻ ngu ngơ ngốc nghếch, và vì thế họ không tin chúng ta và không tiếp nhận chúng ta một cách nghiêm chỉnh. Hay họ có thể không thậm chí không nghe chúng ta hay họ nghe chúng ta một cách sai lầm. Tâm tư họ có thể đã bị bận tâm với điều gì khác, thí dụ vậy. Do thế, thậm chí nếu chúng ta có những ý định dữ dội thật sự làm tổn thương cảm xúc của người ấy, không có gì bảo đảm rằng nó sẽ thật là gì – mặc dù rõ ràng giáo huấn Đạo Phật dạy rằng chúng ta cố gắng không làm tổn thương bất cứ ai. Nhưng điều ấy không liên hệ đến nghiệp báo ở đây.

Khi chúng ta nói về những kết quả nghiệp báo về điều gì ấy, nó là những kết quả nghiệp báo mà tự chúng ta sẽ nếm qua như một kết quả của hành vi trong sự đẩy mạnh này, một lối bắt buộc, với sự thôi thúc của nghiệp báo.

Những ảnh hưởng gì trong chính chúng ta? Một trong những ảnh hưởng – và điều này rất giống với những gì khoa học Tây phương nói – là chúng ta điều kiện hóa chính mình để suy nghĩ trong một cách nào đấy, nói một cách nào đấy, và hành động trong một cách nào đấy, vì thế nó bồi đắp một khuynh hướng để lập lại cung cách của thái độ ấy. Và như một kết quả của ý định ấy để lập lại cung cách của thái độ ấy và cũng là một khả năng để lập lại hành vi ấy- chúng ta cũng làm một sự khác biệt nào đấy giữa những khả năng và những khuynh hướng , mặc dù không nhất thiết để đi vào chi tiết về điều ấy – như một kết quả của chúng, chúng ta muốn lập lại hành vi kia.

Nó thật sự sản sinh ra điều gì, ý định kia hay khả năng nọ? Ý định sản sinh một cảm xúccảm giác muốn đi tới người ấy và ôm người ấy, thí dụ thế, hay cảm thấy muốn đi tới gần người nọ và nói một điều gì đấy bất tịnh. Và rồi thì, khi chúng ta cảm thấy muốn làm điều ấy, dĩ nhiên, chúng ta có sự lựa chọn thực hiện điều ấy hay không. Đấy là một điểm rất quan trọng, để nhận thấy rằng chúng ta có sự lựa chọn để thực hiện những gì chúng ta cảm thấy muốn hành động hay không. Nhưng nếu chúng ta quyết định rằng chúng ta sẽ làm việc ấy, hay nếu chúng ta ngay cả không quyết định sẽ làm điều ấy hay không, chúng ta chỉ thể hiện, thế thì cấp độ kế tiếp là nơi mà nghiệp báo biểu lộNghiệp báo là sự thúc đẩy, sự lèo lái, sự cưỡng bách mà với nó chúng ta thật sự tiến hành việc ấy.

Trong trường hợp ấy, có nhiều thứ khác chín muồi từ những xu hướng này. Một thứ mà một cách căn bản cũng là nội dung của những gì chúng ta trãi qua hay kinh nghiệm. “Nội dung” (content) là một chữ hơi rộng; tôi nghĩ là chúng ta phải hơi rõ ràng hơn. Ở đây, thí dụ, điều phải làm là gặp gở người kia không gặp mặt người nọ. Nó cũng liên hệ cung cách mà người ta hành động đối với chúng taChúng ta phải hết sức cẩn thận về việc chúng ta nói thế nào, nhằm để được chính xác hơn. Nghiệp lực của chúng ta không là nguyên nhân làm cho người kia la hét đến chúng ta – họ la hét với chúng ta như một kết quả của những khuynh hướng mà họ phải la hét đối với người ta. Nhưng nghiệp lực của chính chúng ta là chịu trách nhiệm để nếm mùi những người khác la hét đối với chúng ta.

Dĩ nhiên, điều ấy không phải là một vấn đề dễ dàng lắm để thấu hiểu, nhưng chúng ta nghĩ trong cung cách của việc tiếp cận một sự thấu hiểu về điều ấy với một thí dụ. Nếu một đứa bé đang mang những tấm tả và làm bẩn tấm tả, thế thì đứa bé phải sống trong hoàn cảnh; đứa bé phải sống với tình trạng bẩn thỉu mà nó làm ra. Hãy để qua một bên toàn bộ vấn đề là có ai đấy thay tả cho đứa bé, nhưng điểm ở đây là nếu bạn tạo nên một tình trạng bẩn thỉu, thì bạn phải nếm mùi hay lĩnh nhận nó hay phải trãi qua với sự bẩn thỉu ấy. Chúng ta tạo nên tình trạng hổn độn trong đời sống, và khi cuộc sống đi tới, chúng ta phải chịu càng nhiều lộn xộn bừa bộn hơn; một cách căn bản, nó hoạt động như thế. Một cách rõ ràng hơn, chúng ta hành động trong một cách nào đấy đối với những người khác, thì chúng ta sẽ lĩnh nhận hành vi của người khác trong một cung cách nào đấy đối với chúng ta. Nhưng một nguyên tắc khác rất quan trọng ở đây với nghiệp báo là điều này không hoạt động một cách lập tức. Chúng ta có thể nói với một cách rất thân ái và nhẹ nhàng đối với ai đấy, nhưng họ vẫn rất cuồng nộ, la lối đối với chúng ta với sân hận.

Điều này là tại sao phải thấu hiểu nghiệp báo một cách thật sự, chúng ta phải đem toàn bộ sự thảo luận về tái sinh, điều ấy phải cần một thời gian vô cùng lâu dài trước khi chúng sản sinh một ảnh hưởng, và chúng có thể không phát sinh một tác động trong đời sống hiện tạiThực tế, hầu như chúng không bao giờ (có tác dụng trong hiện kiếp). Điều ấy thật không có gì khủng khiếp để chúng ta như những người Tây phương thừa nhận. Đối với một số người dường như Đạo Phật nói rằng, “Hãy hiền lương trong kiếp sống này và trong kiếp tới, bạn sẽ trãi qua những kết quả trên thiên đàng; nếu xấu xa và, kiếp sau, bạn sẽ phải nếm mùi những kết quả nơi địa ngục.”

Chúng ta phải thẩm tra điều này một cách thật sâu sát: Có phải Phật giáo nói cũng giống như thế, hay nó là khác? Đấy không phải là một chủ đề dễ dàng, nó là một đề mục rất phức tạp, bởi vì để thật sự hiểu về nhân quả nghiệp báo, chúng ta cần thấu hiểu tái sinh – khái niệm của Phật giáo về tái sinh, không phải quan điểm tái sinh phi Phật giáo. Ai liên lụy đến một nguyên nhân nghiệp báo và ai phải nếm mùi kết quả của nó? Có phải có một “cái tôi” được tưởng thưởng hay bị trừng phạt.

Nhưng hãy bỏ qua một bên vấn đề tái sinh và ai lĩnh nhận nó qua một bên, như chúng tôi đã đề cập lúc bắt đầu, Đạo Phật không nói về một hệ thống của thưởng phạt căn cứ trên sự vâng lời luật lệ. Phật giáo không nói về sự sống này là một loại thử thách hay kiểm nghiệm nào đấy, và chúng ta sẽ đón nhận những kết quả của kiểm nghiệm trong kiếp sống tới của chúng ta. Nó chỉ đơn giản nói rằng mọi thứ cần một thời gian dài để sản sinh tác động của chúng. Chúng ta có thể thấy điều ấy trong dạng thức của môi trường. Chúng ta hành động trong một cách nào đấy và nó sản sinh những ảnh hưởng trong đời sống của chúng ta, nhưng nó sẽ sinh sản những tác động ghê gớm nhiều hơn trong đời sống của những thế hệ tương lai. Nó là điều gì tương tự như thế.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12537)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10455)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12389)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11697)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28864)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12083)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13062)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11490)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12418)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17494)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53160)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35557)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21491)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10720)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19332)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12463)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26120)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13364)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14431)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16117)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13767)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16895)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17652)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13191)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12561)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11662)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11666)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14558)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20522)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19065)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19649)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18757)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12244)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12379)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13925)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15106)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15100)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14032)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15564)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11433)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17254)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15035)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20296)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14657)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13919)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11774)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15106)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13043)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22938)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14594)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11710)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13212)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16947)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18399)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11973)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11544)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15904)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12933)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18971)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18507)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant