Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

5 – Những ảnh hưởng của thái độ nghiệp báo

06 Tháng Hai 201100:00(Xem: 9431)
5 – Những ảnh hưởng của thái độ nghiệp báo

NGHIỆP BÁO
Giới Thiệu Tổng Quát
Tác giả: Alexander Berzin - Chuyển ngữTuệ Uyển

5 – NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA THÁI ĐỘ NGHIỆP BÁO

Phật giáo, giống như khoa học, dạy rất nhiều trong những dạng thức nhân quả. Vì thế, nếu bị lèo lái bởi nghiệp báo – sự thúc đẩy này – chúng ta làm những việc, nói những điều, và suy nghĩ những thứ gì đấy, sau đó sẽ có một kết quả. Nghiệp báo không nói quá nhiều về ảnh hưởng của thái độ chúng ta đối với những người khác – mặc dù, dĩ nhiên, nó thật sự tác động trên những người khác. Đây là bởi vì, một cách thật sự, ảnh hưởng trên những người khác của những gì chúng ta thực hiện đối với họ là tùy trên người ấy, đến một sự phạm vi lớn. Một số ảnh hưởng trên người khác của những gì chúng ta thực hiện trên họ là qua những nhân tố vật lý mà thôi: bạn đấm ai đấy và làn da bị thâm tím. Đó chỉ là nhân quả vật lý thân thểchúng ta không đang nói điều ấy với nghiệp báo. Nhưng ảnh hưởng có trên người kia trong những dạng thức họ trãi qua kinh nghiệm như thế nào đối với những gì chúng ta nói hay làm đối với họ, điều ấy tùy họ, có phải không? Chúng ta có thể nói điều gì đấy rất độc địa đến ai đấy, thí dụ thế, và cảm xúc mà họ nhận được có thể rất tổn thương; ho có thể rất khó chịu. Nhưng họ cũng có thể nghĩ rằng chúng ta hoàn toàn là những kẻ ngu ngơ ngốc nghếch, và vì thế họ không tin chúng ta và không tiếp nhận chúng ta một cách nghiêm chỉnh. Hay họ có thể không thậm chí không nghe chúng ta hay họ nghe chúng ta một cách sai lầm. Tâm tư họ có thể đã bị bận tâm với điều gì khác, thí dụ vậy. Do thế, thậm chí nếu chúng ta có những ý định dữ dội thật sự làm tổn thương cảm xúc của người ấy, không có gì bảo đảm rằng nó sẽ thật là gì – mặc dù rõ ràng giáo huấn Đạo Phật dạy rằng chúng ta cố gắng không làm tổn thương bất cứ ai. Nhưng điều ấy không liên hệ đến nghiệp báo ở đây.

Khi chúng ta nói về những kết quả nghiệp báo về điều gì ấy, nó là những kết quả nghiệp báo mà tự chúng ta sẽ nếm qua như một kết quả của hành vi trong sự đẩy mạnh này, một lối bắt buộc, với sự thôi thúc của nghiệp báo.

Những ảnh hưởng gì trong chính chúng ta? Một trong những ảnh hưởng – và điều này rất giống với những gì khoa học Tây phương nói – là chúng ta điều kiện hóa chính mình để suy nghĩ trong một cách nào đấy, nói một cách nào đấy, và hành động trong một cách nào đấy, vì thế nó bồi đắp một khuynh hướng để lập lại cung cách của thái độ ấy. Và như một kết quả của ý định ấy để lập lại cung cách của thái độ ấy và cũng là một khả năng để lập lại hành vi ấy- chúng ta cũng làm một sự khác biệt nào đấy giữa những khả năng và những khuynh hướng , mặc dù không nhất thiết để đi vào chi tiết về điều ấy – như một kết quả của chúng, chúng ta muốn lập lại hành vi kia.

Nó thật sự sản sinh ra điều gì, ý định kia hay khả năng nọ? Ý định sản sinh một cảm xúccảm giác muốn đi tới người ấy và ôm người ấy, thí dụ thế, hay cảm thấy muốn đi tới gần người nọ và nói một điều gì đấy bất tịnh. Và rồi thì, khi chúng ta cảm thấy muốn làm điều ấy, dĩ nhiên, chúng ta có sự lựa chọn thực hiện điều ấy hay không. Đấy là một điểm rất quan trọng, để nhận thấy rằng chúng ta có sự lựa chọn để thực hiện những gì chúng ta cảm thấy muốn hành động hay không. Nhưng nếu chúng ta quyết định rằng chúng ta sẽ làm việc ấy, hay nếu chúng ta ngay cả không quyết định sẽ làm điều ấy hay không, chúng ta chỉ thể hiện, thế thì cấp độ kế tiếp là nơi mà nghiệp báo biểu lộNghiệp báo là sự thúc đẩy, sự lèo lái, sự cưỡng bách mà với nó chúng ta thật sự tiến hành việc ấy.

Trong trường hợp ấy, có nhiều thứ khác chín muồi từ những xu hướng này. Một thứ mà một cách căn bản cũng là nội dung của những gì chúng ta trãi qua hay kinh nghiệm. “Nội dung” (content) là một chữ hơi rộng; tôi nghĩ là chúng ta phải hơi rõ ràng hơn. Ở đây, thí dụ, điều phải làm là gặp gở người kia không gặp mặt người nọ. Nó cũng liên hệ cung cách mà người ta hành động đối với chúng taChúng ta phải hết sức cẩn thận về việc chúng ta nói thế nào, nhằm để được chính xác hơn. Nghiệp lực của chúng ta không là nguyên nhân làm cho người kia la hét đến chúng ta – họ la hét với chúng ta như một kết quả của những khuynh hướng mà họ phải la hét đối với người ta. Nhưng nghiệp lực của chính chúng ta là chịu trách nhiệm để nếm mùi những người khác la hét đối với chúng ta.

Dĩ nhiên, điều ấy không phải là một vấn đề dễ dàng lắm để thấu hiểu, nhưng chúng ta nghĩ trong cung cách của việc tiếp cận một sự thấu hiểu về điều ấy với một thí dụ. Nếu một đứa bé đang mang những tấm tả và làm bẩn tấm tả, thế thì đứa bé phải sống trong hoàn cảnh; đứa bé phải sống với tình trạng bẩn thỉu mà nó làm ra. Hãy để qua một bên toàn bộ vấn đề là có ai đấy thay tả cho đứa bé, nhưng điểm ở đây là nếu bạn tạo nên một tình trạng bẩn thỉu, thì bạn phải nếm mùi hay lĩnh nhận nó hay phải trãi qua với sự bẩn thỉu ấy. Chúng ta tạo nên tình trạng hổn độn trong đời sống, và khi cuộc sống đi tới, chúng ta phải chịu càng nhiều lộn xộn bừa bộn hơn; một cách căn bản, nó hoạt động như thế. Một cách rõ ràng hơn, chúng ta hành động trong một cách nào đấy đối với những người khác, thì chúng ta sẽ lĩnh nhận hành vi của người khác trong một cung cách nào đấy đối với chúng ta. Nhưng một nguyên tắc khác rất quan trọng ở đây với nghiệp báo là điều này không hoạt động một cách lập tức. Chúng ta có thể nói với một cách rất thân ái và nhẹ nhàng đối với ai đấy, nhưng họ vẫn rất cuồng nộ, la lối đối với chúng ta với sân hận.

Điều này là tại sao phải thấu hiểu nghiệp báo một cách thật sự, chúng ta phải đem toàn bộ sự thảo luận về tái sinh, điều ấy phải cần một thời gian vô cùng lâu dài trước khi chúng sản sinh một ảnh hưởng, và chúng có thể không phát sinh một tác động trong đời sống hiện tạiThực tế, hầu như chúng không bao giờ (có tác dụng trong hiện kiếp). Điều ấy thật không có gì khủng khiếp để chúng ta như những người Tây phương thừa nhận. Đối với một số người dường như Đạo Phật nói rằng, “Hãy hiền lương trong kiếp sống này và trong kiếp tới, bạn sẽ trãi qua những kết quả trên thiên đàng; nếu xấu xa và, kiếp sau, bạn sẽ phải nếm mùi những kết quả nơi địa ngục.”

Chúng ta phải thẩm tra điều này một cách thật sâu sát: Có phải Phật giáo nói cũng giống như thế, hay nó là khác? Đấy không phải là một chủ đề dễ dàng, nó là một đề mục rất phức tạp, bởi vì để thật sự hiểu về nhân quả nghiệp báo, chúng ta cần thấu hiểu tái sinh – khái niệm của Phật giáo về tái sinh, không phải quan điểm tái sinh phi Phật giáo. Ai liên lụy đến một nguyên nhân nghiệp báo và ai phải nếm mùi kết quả của nó? Có phải có một “cái tôi” được tưởng thưởng hay bị trừng phạt.

Nhưng hãy bỏ qua một bên vấn đề tái sinh và ai lĩnh nhận nó qua một bên, như chúng tôi đã đề cập lúc bắt đầu, Đạo Phật không nói về một hệ thống của thưởng phạt căn cứ trên sự vâng lời luật lệ. Phật giáo không nói về sự sống này là một loại thử thách hay kiểm nghiệm nào đấy, và chúng ta sẽ đón nhận những kết quả của kiểm nghiệm trong kiếp sống tới của chúng ta. Nó chỉ đơn giản nói rằng mọi thứ cần một thời gian dài để sản sinh tác động của chúng. Chúng ta có thể thấy điều ấy trong dạng thức của môi trường. Chúng ta hành động trong một cách nào đấy và nó sản sinh những ảnh hưởng trong đời sống của chúng ta, nhưng nó sẽ sinh sản những tác động ghê gớm nhiều hơn trong đời sống của những thế hệ tương lai. Nó là điều gì tương tự như thế.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12576)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14167)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10912)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10592)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11262)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12061)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13216)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13703)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33723)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11392)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12987)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13129)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11687)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17946)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11492)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11919)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11580)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 19038)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12627)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11413)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13216)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15842)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11897)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11773)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12868)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12722)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 14012)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13030)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12995)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13362)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12832)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12755)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11802)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11783)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12400)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12452)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19896)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 12047)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12070)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16947)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12732)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15149)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16196)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12947)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12308)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11972)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11975)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13218)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16566)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13286)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12570)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11906)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19924)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11228)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11322)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10457)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11154)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 11017)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10073)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11798)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant