Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

d. Cần tiến

13 Tháng Hai 201100:00(Xem: 11189)
d. Cần tiến

KINH LỜI VÀNG 
Tác giả: Dương Tú Hạc
Dịch giả: HT Thích Trí Nghiêm
 

PHẦN II 

NGÔN HÀNH 

--- o0o --- 

Chương II

TỰ LỢI 

D. CẦN TẤN

Này các Tỳ Kheo! Nên siêng tu tinh tấn thì việc gì cũng dễ. Vậy nên các ngươi phải siêng tinh tấn; ví như chút nước thường chảy thời có thể xoi mòn đá. Nếu tâm kẻ tu hành thường khi biếng trễ, ví như dùi cây lấy lửa chưa nóng mà nghỉ, dầu muốn được lửa, lửa vẫn khó được.

Kinh Di Giáo

Như hai người đồng sắp đi đến một chỗ, một người cưỡi con ngựa hay và một người cưỡi con ngựa dở; tuy cưỡi ngựa dở, vì khởi hành trước nên được đến trước. Những người tin, hiểu sớm siêng tu tinh tấn, được trước đến Niết bàn.

Luận Tỳ Bà Ta

Đệ tử Phật tên Bạc Cụ La nói: Tôi từ khi xuất gia đến nay, đã tám mươi năm qua, chưa từng ngủ nghỉ: hông chẳng dính chiếu, lưng chẳng dựa vào đâu.

Kinh Bạc Cụ La

Xưa có kẻ nhạc sĩ, biết đủ điệu nhạc, đến nhà trưởng giả xin trâu. Ông trưởng giả vì chẳng muốn cho trâu nên bảo anh rằng: Nếu anh đánh nhạc được luôn ngày đêm chẳng nghỉ đủ một năm tròn thì tôi cho trâu.

Anh thưa: Tôi đánh được, xin Ông cũng nghe luôn; trưởng giả nói: Tôi nghe luôn chớ sao! Anh ta nghe thế rất vui mừng, chăm lòng đánh luôn 3 ngày 3 đêm không chút nghỉ tay. Trưởng giả chán quá nghe không nổi nữa liền sai người nhà đem trâu ra cho.

Tỳ kheo tu đạo cũng cần như vậy. Được quả báo bất tất phải trải qua nhiều kiếp, hễ tinh tấn càng mạnh được quả báo càng sớm.

Kinh Tạp Thí Dụ

Bồ tát siêng tu hơn hết là siêng tu tinh tấn. Cho nên chẳng bị các món phiền não nầy làm rối loạn là: tham dục, giận dữ, ngu si, khinh dễ, não hại, ganh ghét, hiềm hận, dua dọc, không hổ, không trẽn.

Bồ tát thường nghĩ như vầy: "Ta chẳng muốn não hại các chúng sanh cho nên tu tinh tấn; thảy vì muốn phân biệt tất cả chúng sanh mà tu tinh tấn; vì muốn biết tất cả chúng sanh chết đây sanh kia nên tu tinh tấn; vì muốn biết thật pháp của các đức Phật nên tu tinh tấn; vì muốn biết các pháp bình đẳng để làm phương tiện khéo léo nên tu tinh tấn; vì muốn biết ba đời bình đẳng nên tu tinh tấn; vì muốn chứng được pháp các đức Phật nên tu tinh tấn; vì muốn biết đại trí huệphương tiện khéo léo của các đức Phật nên tu tinh tấn; vì muốn biết tất cả Phật pháp để rộng vì chúng sanh phân biệt nên tu tinh tấn."

Bồ tát tu hạnh tinh tấn như vậy, hoặc có người hỏi: nếu có người tuy chịu khổ trong đại địa ngục trải lâu vô lượng vô số kiếp để khiến chúng sanh được Niết bàn rốt ráo chăng?

Bồ tát trả lời: Ta thảy vì tất cả chúng sanh trong thế gian mà chịu khổ ở địa ngục; sau khi chịu khổ Ta được hưởng vui vì ta thay cho tất cả chúng sanh mà chịu khổ để khắp khiến chúng sanh được Niết bàn rốt ráo. Nhiên hậu ta mới trọn nên vô thượng Bồ đề. Được như thế mới gọi là hạnh vô tận của Bồ tát.

Bồ tát tu tập các hạnh mà không sanh lòng mỏi mệt, thế lực mạnh mẽ không ai chế phục được, như thê mới đầy đử tất cả trí huệ.

Kinh Hoa Nghiêm

Có 10 món tinh tấn Bồ tát có thể tu: 

Vì muốn chúng sanh được giải thoát nên mặc áo giáp tinh tấn để phá trừ các chướng ngại 

Chăm nghĩ sức mạnh tinh tấn 

Xa lìa chấp trước "có" và "không" mà tu tinh tấn 

Vì muốn lợi ích chúng hữu tình mà tu tinh tấn 

Vì muốn được bồ đề gia hạnh mà tu tinh tấn 

Vì muốn nối liền nhau mà tu tinh tấn 

Vì muốn trong sạch mà tu tinh tấn 

Vì kẻ khác không làm được mà tu tinh tấn 

Chẳng theo tà giáo của kẻ khác mà tu tinh tấn 

Vì không có tâm ngạo mạn mà tu tinh tấn 

Bồ tát siêng năng tu tinh tấn chẳng những vì mình chứng được quả vô thượng chánh đẳng chánh giác mà còn vì muốn làm lợi ích cho tất cả chúng hữu tình nữa.

Kinh Trừ Cái Bồ Tát Sở Vấn

Có vị Sa môn ở nước La Duyệt Kỳ, Ngài ngồi mà thề rằng: "Nếu ta chẳng chứng Đạo thì quyết không đứng dậy. Khi muốn buồn ngủ, ta có cái dùi nhọn dài tám tấc, lấy chọt hai bên hông đau không thể ngủ." Trải qua một năm Ngài chứng được Đạo.

Kinh Pháp Cú Thí Dụ

Phật dạy: các ngươi tỳ kheo! Ngày thời siêng năng tu tập các pháp lành, chớ bỏ sai thời; đầu đêm, cuối đêm cũng đừng luống bỏ. Giữa đêm tụng kinh, do mình làm chừng đỗi, đừng vì nhơn duyên ngủ nghỉ, luống qua một đời, không được chút gì. Phải nhớ lửa vô thường, đốt các thế gian, phải sớm cầu tự độ, đừng nên ngủ nghỉ.

Các giặc phiền não, thường rình giết người lắm hơn kẻ oan gia. Đâu nên ngủ nghỉ mà chẳng tự kỉnh ngộ vậy? Rắn độc phiền não, còn ngủ trong tâm ngươi, ví như rắn hổ mun, còn ngủ trong nhà ngươi, ngươi phải lấy cái móc trì giới, mau trừ nó đi; rắn ngủ đã chạy khỏi, mới nên yên ngủ. Nếu nó chưa chạy khỏi mà ngủ là người không biết xấu hổ vậy.

Kinh Di Giáo

Buông lung chính là gốc của các điều ác, chẳng buông lung mới nguồn của các điều lành.

Kinh Niết Bàn

Lỗi buông lung là nặng nhứt trong các lỗi. Người ngu ưa buông lung nên thường bị các khổ não. Nếu ai xa lìa buông lung thì thường được an vui. Tất cả các khổ não buông lung làm cội gốc, cho nên muốn khỏi khổ não cần phải bỏ buông lung.

Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ

Đức Phật bảo chàng Lê Xa Tử ở thành Tỳ Xá Li rằng: buông lung chẳng phải đạo pháp đi đến Niết bàn. Buông lung có 13 lỗi: 

Ưa làm những nghiệp đời bất thiện 

Ưa nói những lời vô ích 

Ưa ngủ nghỉ cho lâu 

Ưa nói chuyện đời 

Ưa gần gủi bạn ác 

Thường biếng nhác trễ nải 

Thường bị người khinh dễ 

Dầu có được nghe cũng liền quên 

Ưa ở chỗ hẻo lánh 

Các căn chẳng điều phục được 

Tham chẳng biết đủ 

Chẳng ưa ở chỗ vắng lặng 

Chỗ thấy biết bất chánh 

Nếu người nào buông lung tuy gần Phật và các đệ tử Phật cũng như xa cách.

Kinh Niết Bàn

Phật dạy: Con người biếng nhác hại cho các hạnh nghiệp: tại giabiếng nhác áo cơm chẳng no đủ, sản nghiệp chẳng phát đạt; xuất giabiếng nhác không thể thoát khỏi khổ sanh tử. Tất cả việc đều nhờ tinh tấn mà hưng khởi: tại gia tinh tấn thời áo cơm đầy đủ, gia nghiệp phát đạt, xa gần khen ngợi. Xuất gia tinh tấn thời trọn nên 37 phẩm trợ đạo, dứt nguồn sanh tử, được đến thành Niết bàn an vui.

Kinh Bồ Tát Bổn Hạnh

Khi Đức Phật ngự tinh xá Kỳ Viên, có kẻ đệ tử tên Nhị Thập Ức, siêng năng học tập cả đêm không ngủ và chuyên cần tu các đạo pháp. Rồi ông tự nghĩ: "Đối với giới luật, ta là đứng đầu, nhưng các món lậu tâm, chưa được giải thoát. Nhà cha mẹ ta rất giàu có, ta nay thôi muốn xả giới về nhà chỉ tu phước nghiệp bố thí cũng được."

Bấy giờ Đức Phật dùng tha tâm trí quán biết ý nghĩ của Nhị Thập Ức; Ngài liền sai kẻ thị giả gọi đến dạy rằng: "Này Nhị Thập Ức! Ta nghe ngươi khi còn tại gia chơi đàn cầm hay lắm; nếu giây đàn thẳng, tiếng nó hay không?" "Dạ thưa Thế Tôn, không hay."

Phật lại hỏi: "Nó dùn, tiếng có hay không?" 

"Dạ thưa cũng không hay."

Phật hỏi nữa: "Vừa vừa không thẳng không dùn thì như thế nào?"

"Dạ thưa Thế Tôn: tiếng nó mới thật là hay."

Nhơn đó Phật dạy: "Này ngươi, khi tinh tấn lắm tâm loạn, mà lúc chẳng tinh tấn, tâm sanh biếng nhác; nếu được vừa vừa bực trung thì quyết được Đạo giải thoát."

Kinh Trung A Hàm

Ngài Cần Thủ Bồ tát nói kệ rằng: như dùi cây lấy lửa, chưa có mà ngừng nghỉ, sức lửa liền dứt mất, biếng nhác cũng như thế.

Kinh Hoa Nghiêm

Trong hai mươi năm ngài Xá Lợi Phất thường siêng năng tu tập phép chỉ quán, đi, đứng, ngồi, nằm, Ngài chánh niệm quan sát không hề loạn động.

Kinh Niệm Phật Tam Muội

Đức Phật nói với A Nan rằng: Di Lặc phát tâm trước Ta 42 kiếp, rồi Ta mới phát tâm tu Đạo, vì nhờ sức đại tinh tấn mà Ta vượt qua 90 kiếp, được thành Đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Kinh Di Lặc Sở Vấn

Trong sáu Độ ba món trước là thuộc về giới học, thiền định thuộc về tâm học, bát nhã thuộc về huệ học duy có tinh tấn là biến khắp tất cả các món.

Luận Du Già Sư Địa

Khi đức Phật Để Sa ra đời, Bồ tát chấp mười ngón tay, quì xuống một gối, đọc một bài kệ khen ngợi công đức của Phật luôn cả bảy ngày đêm liền được siêu chín kiếp.

Luận A Tì Đạt Ma

Những người tu đạo, ví như một người chiến với vạn người. Khi mặc áo giáp ra cửa thành, trong tâm hoặc khiếp sợ, hoặc nửa đường mà lui, hoặc chết tại trận, hoặc thắng trận mà về. Sa môn học đạo, cần phải kiên quyết giữ gìn tâm ý, tinh tiến dũng nhuệ, chẳng sợ gì hết, phá diệt các ma, mau chúng được Đạo quả.

Kinh Tứ Thập Nhị Chương

Lấy tâm buộc tâm, lấy tâm trụ tâm, tâm chuyên một cảnh, thứ lớp không hở, thì được định tâm. Tâm thường yên lặng.

Kinh Bảo Vân

Chăm lòng học đạo pháp, phát tâm đại dũng mãnh, quyết được đến Bồ đề.

Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29916)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27205)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21804)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22267)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23646)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20469)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20080)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21967)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24785)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19024)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24797)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 31013)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24020)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27797)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26563)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21384)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23251)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38186)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18819)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18454)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20012)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19074)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23212)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23919)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22848)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22960)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29622)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20658)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18744)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15870)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18879)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19710)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20195)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19979)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18149)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22984)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34214)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16446)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16950)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39302)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26125)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20136)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18881)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24103)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29181)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22931)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 31002)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21045)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26890)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20712)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26292)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23362)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19843)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24707)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30056)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20248)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20437)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15167)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15854)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23935)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant