Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

f. Đạo vợ chồng

13 Tháng Hai 201100:00(Xem: 11116)
f. Đạo vợ chồng

KINH LỜI VÀNG 
Tác giả: Dương Tú Hạc
Dịch giả: HT Thích Trí Nghiêm
 

PHẦN II 

NGÔN HÀNH 

--- o0o --- 

Chương III

LỢI THA

F - ĐẠO VỢ CHỒNG

Người thế gian: cha con, chồng vợ, anh em, gia thất, bà con nội ngoại phải kính mến nhau, không nen tham tiếc; lời nói, sắc mặt thường tỏ hòa thuận, dừng nên chống trái nhau

Kinh Vô Lượng Thọ

Nếu người có thể giữ được lòng tin thời trong nhà an hòa, phước tự nhiên đến, chớ chẳng phải Thần Thánh nào trao cho vậy. 

Kinh A Nan Phân Biệt

Chồng đối với vợ có 5 điều:

Khi ra vào phải kính mến. 

Cho uống ăn và sắm cho áo mền và đồ trang sức theo thời đại

Phải sắm cho vàng bạcchuỗi ngọc

Trong nhà có bao nhiêu của cải giao hết cho vợ cất giữ. 

Khi đi ra ngoại chẳng nên đem theo những đứa đĩ thõa. 

Vợ thờ chồng có 5 điều:

Chồng đi về phải ra đón tiếp. 

Chồng đi vắng phải lo nấu nướng, quét dọn đợi chồng về. 

Chẳng nên ngoại tình với kẻ khác dù là tâm nghĩ, chồng mắng chửi chẳng đặng mắng lại và tỏ vẻ bất bình. 

Phải nghe lời dạy dỗ của chồng, có món gì chẳng đặng giấu riêng. 

Khi chồng ngủ nghỉ phải lo dọn cất rồi mới đi nằm. 

Kinh Lục Phương 

Là chồng phải lấy 5 điều nuôi, khiến vợ được an, năm điều là: chánh tâm kính mến, ý chẳng hờn giận, không nên ngoại tình, thường cho ăn mặc, thường cho trang sức.

Khéo làm việc, khéo làm nên, vâng lời dạy bảo, dậy sớm, nghỉ tối, mọi việc phải bắt chước, đãi khách quân tử, thưa hỏi khách quân tử, vẻ mặt hòa nhã, lời nói thuận thỏa, ghế, bàn, giường chiếu ngay thẳng, đồ uống ăn sạch sẽ, nghĩ việc bố thí, cúng dường cho chồng. Mười bốn điều này là người vợ phải có. Chồng vợ hòa mực thời thiện pháp chẳng suy đồi

Kinh Thiện Sanh Tử

Người vợ trinh tháo và hiền lương lanh lợi là bậc mẫu nghi đủ bề khôn khéo nuôi con. Bầy con ấy quyết sẽ thành những bậc đại nhân vật. 

Kinh Tăng Nhứt A Hàm (Văn Ba Lị)

Khi Đức PhậtTịnh xá Kỳ thọ. Ông Trưởng Giả Cấp Cô Độc cưới dâu cho con. Người dâu đẹp đẽ đoan chánh vô song, nhưng phải tánh kiêu ngạo, khinh mạng chẳng vâng kính cha mẹ chồng và chồng. Bây giờ ông Trưởng giả tự nghĩ : "Phải con dâu ngạo mạn làm sao mà dạy dỗ nó! Nếu đánh đập là chẳng phải điều lành, mà bỏ qua, chẳng dạy dỗ thời càng ngày nó càng thêm nhiều tội lỗi. Duy thỉnh Đức Phật nhờ Ngài dạy bảo giùm". Sáng ngày ông đi đến Phật, thỉnh Phật về nhà nhờ giáo hóa con dâu mới tên là Ngọc Da. Đức Phật đến Trưởng giả rồi Ngài bảo rằng : "Này Ngọc Da nữ ! Phàm làm đàn bà con gái đừng cậy sắc đẹp mà sanh lòng kiêu mạn, hình dung đoan chánh đẹp đẽ chẳng phải thật đẹp đẽ, mà tâm tánh đoan chánh đẹp đẽ được người kính mến mới thật là đẹp đẽ chơn thật vậy". 

Phép làm đàn bà con gái có 5 điều :

Khuya mới ngủ, sớm lo dậy, để lo việc gia sự, hoặc có món ngon vật lạ trước đem dâng lên cha mẹ và chồng. 

Phải xem sóc và giữ gìn đồ đạc trong nhà. 

Phải cẩn thận lời nói và nhẫn nại, có giận thì chút thôị... 

Dè dặt cẩn thận, thường lo sợ việc mình không chu đáo thế. 

Nhất tâm cung kính phụng sự cha mẹ chồng và chồng và hết lòng hiếu thảo

Lõi nữa làm dâu có 5 phép :

Làm vợ như làm mẹ, mến chồng như mẹ thương con vậy. 

Làm vợ như làm tôi, là thờ chồng như bề tôi thờ vua vậy. 

Làm vợ như em gái, là thờ chồng như em gái thờ anh cả vậy. 

Làm vợ như đày tớ, là thờ chồng như tớ gái vậy. 

Làm vợ của chồng, là xem nhau đồng tâm hiệp ý, tuy hình thể khác nhau mà không sanh lồng kiêu mạn. Công việc trong, ngoài tốt đẹp, gia đình giàu có; tiếp đãi khách tử tế, tiếng tốt được đồn khen. 

Trái lại làm dâu có 3 điều xấu :

Chưa tối mà đi ngủ, mặt trời mọc mà chưa dậy, đối với chồng giận dữ, trợn mặt, hiềm ghét, và mắng chửi

Cơm ngon tự ăn, mà cơm dở đem dọn cho cha mẹ và chồng, trang điểm cho đẹp dối gạt. 

Chẳng lo nghĩ việc sanh sông mà đi dạo xóm luận nói những chuyện xấu tốt, hay dở của người ta và hay cãi cọ, đánh lộn, ganh ghét dòng họ. Làm dâu như thế bị thiên hạ khinh d lắm. 

Nàng Ngọc Da nghe Phật day một hồi mới sanh lòng xấu hổ mà thưa rằng : Con thực ngu si quá, chẳng biết gì Chánh pháp nên những việc con đã làm đều là sai quấy; nay con xin Ngài tha lỗi cho. Rồi nàng thọ Tam QuiNgũ giới với Phật". 

Kinh Ngọc Da

Nước Câu Luu có người Bà la Môn tên Ma Ha Mật, nhà rất giàu cótrí huệ hơn người; ông ta làm quan đến chức Quốc Sư. Nhưng bị lòng xan tham chẳng tin Phật Pháp. Ông ta sanh hạ bảy đứa con gái, nhan sắc đẹp đẽ vô song, lại thêm nhà giàu có, ngọc vàng trang sức đầy đủ trang nghiêm. Bấy giờ có ông bạn tên là Phân nho Đạt đến bảo Bà la Môn rằng : "Anh đem mấy đứa con gái của anh vào trong thành cho người xem; nếu có người chê xấu, thời anh đưa tôi năm vàng, mà nếu không có một ai chê xấu, thì tôi đền anh năm trăm vàng". Hai ông bèn dẫn bảy đứa con gái đi dạo khắp trong nước, thời gian đến chín mươi ngày mà không một ai chê xấu nửa lời. Bây giờ hai ông nghe tin Đức Phật thuyết pháp tại Tịnh Xá Kỳ Viện, liền rủ nhau dẫn đến nơi Phật mà thưa rằng : "Ngài hay dạo đi khắp các nước, Ngài đã từng thấy có những người con gái nào xinh đẹp như vậy không ?" Phật quở thẳng rằng : "Mấy đứa gái này chẳng có chút gì đẹp cả". Bà la Môn nói : "Toàn quốc không một ai chê con tôi xấu mà sao Ngài lại chê nó xấu ?". Phật đáp : "Người đời họ xem cái đẹp của năm căn năm cảnh cho là đẹp. Còn Ta cho là cái thân chẳng tham trơn láng, cái miệng chẳng nói lời ác, tâm ý chẳng nghĩ điều ác điều ác mới là đẹp vậy". 

Kinh Thất Nữ

Phật nói : đàn bà có 5 thế lực :

Nhan sắc

Thân tộc

Đất ruộng, 

Con trai, 

Tự giữ mình. 

Mà khinh d người chồng. Nhưng người chồng chỉ có 1 thế lực giàu sang là có thể địch lại năm món kia. 

Kinh Tăng Nhất A Hàm

Ông An Na Phấn Kỳ trưởng giả cưới vợ cho con, người dâu nhan sắc đẹp như sắc bông đào. Nàng là con gái của một Đại thần triều vua Ba Tư Nặc; bởi vậy mà nàng ỷ thế nhà cha nên chẳng thèm cung kinh cha mẹ và chồng, cũng không biết tin Tam Bảo. Trưởng giả đến nhờ Phật dạy bảo cho. Sáng ngày Phật đến nhà trưởng giả và bảo rằng : "Nay cô dâu mới ! Phép về làm vợ người có 4 việc :"

Vợ như mẹ. 

Vợ như bà con

Vợ như kẻ thù

Vợ như đầy tớ. 

Làm vợ như mẹ là đối với chồng thừa sự cúng dường chẳng thiếu món gì cả. Vợ như người bà con là xem chồng không có tâm tăng giảm, phải khổ vui cùng hưởng. Còn làm vợ như kẻ địch là đối với chồng ôm lòng giận dữ ganh ghét, chẳng biết vâng thờ gì cả. Mà làm vợ như đứa tới gái là người vợ hiền lương, với chồng nhẫn nhịn chẳng dám nói lời trả treo, thường vó tấm lòng thương mến vậy. Người khéo thờ chồng khi chết sanh lên cõi Trời, mà tệ ác với chồng chết đọa địa ngục. Nàng Thiện Sanh nữ nghe Phật dạy rất xấu hổ và thưa rằng : "Thưa Thế Tôn! Con từ nay xin làm vợ như làm đứa tớ gái vậy". Và nàng quy y Tam Bảo làm Ưu Bà Di

Kinh A Na Phấn Kỳ Hóa Thất Tử

Khi Đức Phật ở nước Xá Vệ bây giờ có nhà vấn sâu rộng tên là Bà Tư Nị Ca, gia tư tại thôn trưởng Đề cách thành Xá Vệ về phiá tây hơn 20 dặm. Ông này có lòng thâm tín Phật Giáo và sanh hạ được một con gái đầu lòng tên Am Đề Giá, đã gả lấy chồng và đã theo chồng; nhưng có việc trở về nhà, vừa lúc Phật sắp đến nhà ông này mà Ngài đã nhận lời mời bữa trước. Khi Phật đến, cả nhà đều ra nghênh tiếp, duy có cô Đề Giá không ra rước vì đợi người chồng về. Một lát sau người chồng về cô rất vui mừng rồi hai vợ chồng cùng nhau ra l Phật. Đực Phật mới bảo với Ngài Xá Lợi Phất rằng : "Khi Thầy trò mình đến cô này không ra vì chưa có mặt chồng đợi khi chồng về hai người mới ra l. Thế là cô này đã hiểu l phép lắm vậy !" 

Kinh Sư Tử Hẩu Liểu Nghiã

Ông A Nan Phấn Kỳ Trưởng giả ở thành Xá Vệ kết bạn thâm giao với Ông Mãn Tài Trưởng giả ở thành Mãn Phú. Nguyên do họ A có lập một sở nhà hàng buôn bán lớn bên thành Mãn Phú, thì ngược lại họ Mãn cũng có sở nhà hàng bên thành Xá Vệ khuếch trương buôn bán tương đương và cũng vì thế mà việc giao hảo giữa hai Ông lại càng thân mật.

Họ A có một con gái út, họ Mãn muốn hỏi về làm dâu, nhưng họ A cònh lưỡng lự chưa quyết, vì đôi bên khác tín ngưỡng. Họ A nghĩ bụng: e việc này nên thưa Phật. Thì Phật bảo cứ gả cho họ đi. Thế là hai Ông trưởng giả định ngày thành hôn. Đến ngày ấy cô út lo tắm rửa, xoa dầu thơm, và trang điểm vàng ngọc rồi lên xe hoa về nhà chồng, tức là nhà Ông cha chồng Mãn Tài tại thành Mãn Phú.

Nhưng chiếu theo luật của Quốc gia này thì không được cưới người nước ngoài về làm dâu, nếu ai phạm phải thì chịu phạt bằng cách cúng dường một bữa ăn cho sáu ngàn ông Phạm Chí Bà La Môn. Vậy nên, cũng nhơn ngày rước dâu bày luôn tiệc phạt cúng dường cho sáu ngàn ông Phạm Chí. Các Ông Phạm Chí đế trần nửa cái thân mà đi vào nhà họ Mãn. Lúc các Ông đến cửa thì Trưởng giả bảo cô dâu mới ra l bái các Ngài. Cô dâu bất tuân lịnh cha chồng và nói : "Tôi không thể l những kẻ trần mình; Đức Phật Thầy tôi thường dạy chúng tôi rằng : Kẻ nào chẳng biết hổ trẽn là những kẻ chẳng biết phân biệt cha mẹ, anh em, tôn tộcbà con dòng họ; các ông Bà La Môn kia là những kẻ không biết hổ trẽn nên tôi không muốn lạy. Khi ấy các Bà La Môn nghe nổi sân si bỏ tiệc ra về. Ông Mãn Tài rất buồn rầu, thường lên lầu cao nằm mà bực tức. Bây giờ có ông Phạm Chí tên Tu Bạt đến thăm thấy ông Mãn buồn phiền mới hỏi thì ông Mãn cho biết vì việc mới xảy ra. Ông Tu Bõt nói : "Bực thầy của cô dâu mới này oai đức cao cả lắm ông đừng buồn làm chi để tôi thuật chuyện chính tai nghe mắt thấy cho ông nghe : "Có một lần tôi đi đến ao A Nậu thần giữ ao không cho tôi vào, một lát sau tôi thấy có ông niên thiếu Tỳ kheo đến thì Thần ao ra nghinh đón và mời ngồi trên một Tòa bằng vàng mà l bái rất cung kính. Đó là đệ tử mà còn như thế, huống chi bực Thầy... Ông Mãn nghe rất vui mừng và đòi cô dâu lên hỏi : Nay ta muốn mời thầy của ngươi về nhà cung phụng mà ta không hiểu phép thỉnh mời như thế nào. Cha nhờ con thỉnh hộ. Nàng vâng lời và rất vui mừng. Tắm rửa sạch sẽ rồi thường lên lầu cao đốt hương hướng về Phật làm l mà thỉnh cầu : Cúi xin đức Thế Tôn chứng giám; Con nay về nước người hiện đang bị nạn; cúi xin Ngài đến cứu khổ.

Bấy giờ Phật dạy A Nhã Câu Lân đi hầu tả, Xá Lợi Phất đi hầu hữu, A Nan mang bình bát đi hầu sau, và một ngàn hai trăm năm mươi vị đi chung quanh Ngài và thẳng đến nhà ông Trưởng giả Mãn Tài. Đến cửa, Trưởng giả và cô dâu ra l rước Phật cùng chư Tăng. Bây giờ sáu ngàn Phạm Chí thấy Phật vào nước mình và bảo với nhau rằng : "Nay Sa Môn Phật đã vào nước mình thì chúng mình không thể ở đây được nữa, nên bỏ xứ mà đi cho rồi, vì Phật đã hiện thần thông rất mầu nhiệm, chúng ta không thể bì kịp... rồi họ bỏ nước đi hết". 

Đực Phật thuyết pháp cho gia đình ông Mãn và cả một sốt đông đảo nghe. Có người đã được tĩnh ngộ và đa số đều quy y Tam Bảothọ trì Ngũ giới

Kinh Tăng Nhứt A Hàm

Vua Ưu Đà Diên nước Câu Chiên Di có hai bà phu nhân. Bà thứ nhất tên là Xá Ma, có lòng thâm tín Phật Pháp, bà thứ tên Đế Nữ tánh tình dua nịnh, thường đến chỗ Vua mà sàm tấu và bài báng rằng bà phu nhơn thứ nhất cùng với Phật làm việc phi pháp. Vua nghe thế nổi sân nộ dữ tợn liền lấy cung tên đem bắn bà phu nhơn thứ nhất. Lúc ấy vì bà thương hại nhà Vua nên bà liền vào Thiền định từ ái. Vì thế mà tên bắn không trúng, Vua bắn liên tiếp ba phen mà vẫn không trúng. Vua cả kinh hỏi Bà tại sao ? Hay ngươi là Trời là Rồng gì chăng mà ta bắn không trúng ? Bà đáp : "Tôi không phải là Trời là Rồng gì cả, mà tôi chỉ có lòng tin Phật được nghe Chánh pháp và tôi tu trì ngũ giới. Nay tôi vì lòng thương Đại vương nên nhập Từ ái Tam muội Thiền định dầu cho Đại vương tuy có ác tâm cũng không thể hại được lòng từ bi của tôi. Nhà Vua nghe hết sức ăn năn đã tin lời sàm tấu của đệ nhị phu nhân, và ông liền vội vã chạy đến chỗ Phật rồi tự thuật lại chuyện vừa xảy ra và cầu xin ăn năn sám hối. Rồi quy y Tam Bảo làm kẻ Ưu Bà Tắc

Kinh Bảo Tích

phu nhân cùng các tì nữ của Đại Thọ Khẩn Na La thưa Phật rằng : "Bạch Đức Thế Tôn chúng con đã phát tâm vô thượng Đạo mà làm thế nào cho Đạo tâm ấy mau thành tựu, cúi xin Ngài dũ lòng thương chỉ dạy cho".

Đức Phật bảo phu nhân cùng các tì nữ rằng : "Các ngươi đã phát tâm Bồ Đề rất thù thắng ở trong tam giới, trừ được phiền não tức chóng thành tựu quả Bồ Đề. Dưới đây có mấy điều các ngươi cần học tập :

Gần gũi với Phật. 

Lìa kẻ tà kiến quyết mau thành tựu Bồ Đề

Lại nữa :

Giữ thân giới

Giữ khẩu giới. 

Giữ ý giới quyết mau thành tựu Bồ Đề

Lại nữa :

Đem tâm vô vi tu bố thí

Chẳng nên dối trá mà tu hạnh trì giới

Đem tâm cung kính hưởng về các bậc Thánh Hiền

Nghe được Chánh pháp thành tựu Bồ Đề

Lại nữa :

Chẳng tham ăn. 

Chẳng tham yến ẩm. 

Chẳng tham kẻ trượng phu

Chẳng tham đồ trang sức. 

Chẳng tham đi du ngoạn

Chẳng tham giỡn cười. 

Chẳng tham kẻ ca nhạc sĩ, ca hát đánh nhạc. 

Chẳng tham những kẻ nhảy múa, và giao hội rượu trà. 

Thế là mau thành tựu bồ đề.

Lại nữa : 

Chẳng nên nói ngã kiến

Chẳng nên nói chúng sanh kiến

Chẳng nên nói thọ giả kiến. 

Chẳng nên nói nhơn kiến. 

Chẳng nên nói đoạn vô kiến

Chẳng nên nói thường hữu kiến

Chẳng nên nói chấp trước hữu kiến

Chẳng nên nói chấp trước vô kiến

Phải khôn khéo hiểu pháp nhơn duyên sanh. 

Thế là mau thành tựu bồ đề.

Lại nữa : 

Thương các chúng sanh

Chẳng nên tham mến của người ta. 

Chẳng nên nghĩ nhớ trai thanh niên con của người ta. 

Giả sử có phải mất mạng cũng đừng nói dối

Chẳng nên nói hai lưỡi. 

Chẳng nên nói lời thô ác. 

Chẳng nên nói thêu dệt

Chẳng nên sanh khởi vô minh phiền não

Chẳng nên khởi giận dữ

Chẳng nên khởi ngu si

Thế là mau thành tựu bồ đề.

Lại nữa : Thiện nữ nhơn ! Nên quan sát ngũ uẩn pháp như sau : Quan sát sắc uẩn như bọt nước, chẳng nên tham tửu sắc. Quan sát thọ uẩn như bong bóng nước, chẳng tham lạc thọ, chẳng bỏ rời khổ thọ, và đối với bất khổ bất lạc thọ, chẳng nên sanh ngu si. Quan sát tưởng uẩn như chớp sáng, chẳng nên khởi tưởng tượng phân biệt trai gái. Quan sát hành uẩn như cây chuối, biết các hạnh chẳng chắc thiệt, chẳng nên chấp đắm các pháp. Quan sát thức uẩn như huyn, đừng cho tâm thức đắm nhim các pháp.

Phu nhơn cùng các người ! Cứ quan sát như vậy, và tu hành ngay đi, thời được nam thân mau được thành tựu quả Bồ đề

Bấy giờ bà Phu nhơn và các kẻ dâm nữ của vua Đại Thọ Khẩn Na La vui mừng nhảy nhót l Phật mà lui. 

Kinh Đại Thọ Khẩn Na La Vương Sở Vấn

Vô Cấu Quang nghe đức Phật thuyết pháp, liền khi ấy phát tâm Bồ đề, đồng thời trong pháp hội cũng có 75 bà vợ của các ông cư sĩ cũng đồng phát tâm Bồ đề.

Bấy giờ ngài Xá Lợi Phất hỏi các bà kia rằng : "Chồng của các ngươi đã cho phép các ngươi tu phạm hạnh này chưa ?". Các bà đáp : "Chúng tôi đã từng hỏi chồng chúng tôi như thế này : chúng ta từ đâu đến đây và ngày mai sẽ đi đến xứ nào ?" Mà chồng chúng tôi không thể trả lời được. Cho nên chúng tôi tu phạm hạnh của chúng tôi chớ không cần hỏi y kiến các ông ấy làm gì. Bỏi vì nay chúng tôi được nghe Phật thuyết pháp; Phật là bậc cha mẹ, là Đấng Sở Tôn, là bậc Đại sư và Đấng Phước Điền của chúng tôi vậy". Rồi các bà làm l Phật.

Bấy giờ 75 ông chồng kéo đến thấy vợ mình đang làm l Phật, các ông trẻ lại chỗ ngài Xá Lợi Phất xin hỏi nguyên do. Xá Lợi Phất cho biết là các bà ấy đã lãnh thọ Phật pháp; từ nay các bà trì cấm giới tu phạm hạnh, vì thế mà bà làm l Phật đó.

Bấy giờ 75 ông cũng đều xin làm đệ tử Phật. Đức Phật nhận cho ngay.

Vô Cấu Quang về đến nhà mẹ bảo mẹ nên phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giácquy y Phật. Nếu mẹ phát tâm thời đó là con đã trả ơn cho mẹ rồi vậy. Bà mẹ nói với con rằng : mẹ đã phát tâm từ lâu con không biết chớ khi mẹ mang thai con, mẹ không sanh khởi lòng xan tham, phá giới, giận dữ, biếng nhác, loạn niệm, ác huệ, tham tâmngu si, tà kiến. Mẹ thường vui mừng chánh pháp, cho nên thân tâm được an vui. Và thường chiêm bao thấy Phật và các đệ tử Phật đến thuyết pháp cho mẹ nghe. 

Kinh Chuyển Nữ Thân

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49776)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34655)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33468)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43956)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57111)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47591)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39439)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38491)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52972)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36623)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32258)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40508)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43513)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31480)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46733)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36227)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28723)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29267)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31919)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28860)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33398)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29167)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 61019)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39806)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26707)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29699)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37411)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40119)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26866)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42696)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37298)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28316)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28910)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26414)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27187)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26207)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34704)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27832)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30496)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33315)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28585)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30095)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25498)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21863)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51342)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26749)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28641)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27728)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24374)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27490)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31972)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30214)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27731)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35482)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27477)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30042)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31801)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23046)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24204)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23049)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant