Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

d. Pháp thân

13 Tháng Hai 201100:00(Xem: 11671)
d. Pháp thân

KINH LỜI VÀNG 
Tác giả: Dương Tú Hạc
Dịch giả: HT Thích Trí Nghiêm
 

PHẦN III – NHƠN QUẢ

CHƯƠNG III

PHẬT ĐÀ

D. PHÁP THÂN

Phật nói: Từ nay về sau, các đệ tử Ta truyền nhau hành đạo, tức là pháp thân Như Lai thường còn ở đời mà chẳng mất vậy.

Kinh Di Giáo

Pháp thânbất động, bất sanh, bất hý luận, bất phân biệt, yên lặng vậy. Chẳng khá thấy, chẳng khá nghe, chẳng khá ngửi, chẳng khá nếm, chẳng khá rờ, in như thấy các bóng trong gương, tùy theo tâm chúng sanh, mọi sức tin hiểu, mà thị hiện các thân sai khác.

Kinh Phật Cảnh Giới

Trí Như Lai sâu thẩm, khắp chuyển nới pháp giới, dẫn đường sáng cho đời, đồng pháp thân các Phật, tùy theo ý chúng sanh, cho thấy các hình sắc, một cõi một Phật thân, hóa làm vô lượng Phật.

Kinh Hoa Nghiêm

Ngài Đại Huệ Bồ Tát lại thưa với đức Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Vì sao Như Laimật ý đối với đại chúng mà xướng lời như vậy: "Ta là tất cả các đức Phật đời quá khứ."

Đức Phật đáp: Này Đại Huệ! Vì Như Lai nương 4 món bình đẳng nên có mật ý với trong đại chúng mà nói lời như thế. Là 4 món gì? Gọi là: 1. Tự bình đẳng, 2. Ngữ bình đẳng, 3. Thân bình đẳng, 4. Pháp bình đẳng

Tự bình đẳng là: Ta gọi là Phật, tất cả các đức Như Lai khác cũng gọi là Phật, tên Phật không sai khác, ấy là tự bình đẳng

Ngữ bình đẳng là: khởi lên các lời bằng tiếng phạm âm, tất cả các Như Lai cũng nói tiếng ấy, vì tánh của tiếng phạm âm chẳng thêm chẳng bớt, không có sai khác, ấy là ngữ bình đẳng

Thân bình đẳng là: pháp thân sắc tướng và các món tùy hình hảo của Ta cùng với các đức Phật khác thảy đều đồng, không có sai biệt, ấy là thân bình đẳng

Pháp bình đẳng là: Ta cùng các đức Phật khác đều đồng nói được 37 món bồ đề phận pháp, ấy là pháp bình đẳng

Do đó cho nên Như Lai đối giữa đại chúng mà nói lời như thế.

Kinh Nhập Lăng Già

Thân Phật dầy nhẫy trong pháp giới.

Khắp hiện trước mặt mọi chúng sanh.

Theo duyên cảm đến thảy đều khắp.

Mà thường ngồi tòa các Bồ tát.

Kinh Hoa Nghiêm

Pháp thân Như Lai với pháp thân Bồ tát bản thể tuy không khác, mà với công đức oai lực thời chẳng đồng. Tất cả pháp tánh tướng bình đẳng, bản thể đồng nhất: Phàm Thánh, mê ngộ, nhiễm tịnh, nhơn quả khứ lai, tiến thoái, đều đồng một tướng vậy. Nhưng như ngọc ma ni chưa được mài đủa lau chùi thời chưa có ánh sáng vẻ vang. Pháp thân của Bồ Tát cũng như viên ngọc ma ni chưa dũa lau, cho nên không thể nói là đồng với Pháp thân Như Lai được.

Kinh Hoa Nghiêm

Đức Phật bảo Ngài Ca Diếp rằng: Thân Như Lai là thân thường trú, cái thân cứng như kim cương không thể phá hoại được. Hễ ai có nhơn duyên hay hộ trì Chánh pháp, thời thành tựu được thân kim cương này. Ta nhiều đời về trước, nhờ nhân duyên hộ pháp, mới được trọn nên thân kim cương thường trú chẳng khá hoại nầy.

Kinh Niết Bàn

Ngài Di Lặc Bồ Tát hỏi Phật rằng: Khi Phật ở thành Tì Gia mà thành đạo dưới gốc cây Bồ đề, cho đến nay chưa bao lâu, mà được vô số Phật, Bồ tát đã nhiều kiếp tu hành đến nay kính lễ Thế Tôn, in như ông già trăm tuổi bảo một kẻ thanh niên hơn hai mươi tuổi rằng: "Ngươi là cha ta vậy". Cha mà nhỏ tuổi hơn con, cả người đời chẳng ai tin nổi. Xin Phật vì người đời saugiải thích cho điều nghi này.

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo cả chúng Đại Bồ tát rằng: Từ khi Ta thành Phật đến nay đã 500 vạn ức số mảy trần, cũng đã trải qua trăm ngàn vạn ức thời gian số kiếp. Từ ấy đến nay ta thường ở thế gian này thuyết pháp giáo hóa, và còn ở trăm ngàn vạn ức thế giới khác nữa, mà dìu dắt lợi ích cho chúng sanh.

Này các Bồ Tát! Ta ở trong ngần ấy thời gian, làm các món Phật sự, và lại nói rằng nhập Niết Bàn như thế, đều là dùng phương tiện vậy thôi. Các Bồ Tát! Ta tiếp người ứng theo tri thức của họ mà nói ra danh tự chẳng đồng, tuổi tác lớn nhỏ; lại có lúc nói nhập Niết Bàn, có lúc chẳng nhập Niết Bàn. Như Lai với chúng sanh nào ưa tiểu pháp, thời Ta nói Ta xuất gia từ nhỏ, rồi chứng được quả vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nhưng kỳ thật Ta thành Phật đến nay đã lâu lắm rồi, chỉ dùng phương tiện giáo hóa chúng sanh khiến vào Phật Đạo nên mới nói như vậy thôi.

Này các Bồ Tát! Như Lai diễn nói kinh điển đều nhắm mục đích độ thoát chúng sanh. Tuy là hoặc nói thân mình, hoặc nói thân người, hoặc hiện việc mình, hoặc hiện việc người; đã nói ra đều là chân thật, chẳng hư.

Tại sao thế? Tại vì Như Lai thật biết thấy toàn tướng ba cõi không có sanh tử, hoặc vào hay ra, không có kẻ tại thế hay diệt độ, chẳng thật cũng chẳng hư, chẳng đồng cũng chẳng dị, chẳng phải giống như cái thấy biết ba cõi của phàm phu.

Như Lai thấy biết rõ ràng, không có lầm lẫn. Bởi chúng sanh có nhiều lòng tham muốn, nhiều món phân biệt, cho nên phải nói nhiều nhơn duyên, nhiều phương pháp, để khiến tu các điều lành. Như vậy Ta từ khi thành Phật đến nay, đã rất lâu xa, sống lâu vô lượng thường trú chẳng diệt; mà lại nói rằng "Diệt" là vì muốn giáo hóa chúng sanh vậy. Thế thì tại sao mà chẳng nói Như Lai thường trú bất diệt? Bởi những người bạc đức, chẳng trồng căn lành, nều nói thế họ càng bần cùng hạ tiện, tham lam ngũ dục mà bị đọa vào vọng kiến, cho nên phải phương tiện bảo rằng: "Các Đức Phật ra đời khó gặp, qua trăm vạn kiếp mới có Phật ra đời, mà còn có người chẳng thấy Phật". Chúng sanh nghe lời nói này, thời nhất định sẽ nghĩ là khó gặp, mới sanh lòng khao khát trong gặp Phật, muốn trồng các căn lành, vậy nên Như Lai chẳng diệt mà bảo rằng "diệt độ" vậy.

Kinh Pháp Hoa

Pháp thân Như Lai phi lai, phi khứ, vì thật tánh của các pháp chẳng lay động vậy. Chơn nhưNhư Lai, pháp giớiNhư Lai, pháp tánhNhư Lai, tánh không hư vọngNhư Lai, tánh không biếng nhácNhư Lai, tánh bình đẳngNhư Lai, tánh ly sanhNhư Lai, thật tánhNhư Lai, trụ tánh là Như Lai, thật tếNhư Lai, cõi hư khôngNhư Lai, cõi chẳng nghĩ bàn là Như Lai, tánh vô sanhNhư Lai, tánh vô diệt là Như Lai, tánh như thậtNhư Lai, tánh xa lìaNhư Lai, tánh vắng lặngNhư Lai, không tánhNhư Lai, vì là không đến không đi vậy.

Kinh Đại Bát Nhã

Đức Phật gọi Ngài Ca Diếp: Này Ca Diếp! Phật tánh thẳm sâu khó thấy khó vào. Ví như như có một trăm kẻ mù, vì muốn chữa mắt, mới rủ nhau đến một danh sư. Vị thầy thuốc lấy con dao bằng vàng cắt màng trong con mắt; rồi ông đưa một ngón tay hỏi bọn kẻ mù thấy không? Đáp: chưa thấy được. Ông lại đưa hai ba ngón, bọn kẻ mù mới thấy lờ mờ. Cũng như có vô lượng Bồ Tát, đầy đủ các món Ba la mật, tuy chứng đến Thập trụ, mà Như Lai chưa nói Phật tánh nên chẳng hay thấy được Phật tánh, Thập Trụ Bồ Tát hãy còn chẳng thấy huống hồ nhị thừa. Và đến khi Như Lai đã nói Phật tánh, mới thấy chút ít vậy.

Ví như có người đi ngoài đồng nội, khát mà tìm nước, vừa có con hạc trắng ở trong đám cây rừng rậm, kẻ khát kia vì mê muội, nên không thể phân biệt được, cho con hạc là nước, và khi đến nơi xem kỹ mới biết là con hạc trắng.

Kinh Niết Bàn

Đức Phật dạy: Các Đệ tử ví như có một nhà vua, phán quan Đại thần đem một con voi bảo bọn người mu rờ coi. Bọn mù mỗi người chỉ rờ được một chỗ thôi. Nhà vua hỏi bọn mù hình voi ra sao? Kẻ rờ được cặp ngà thì tâu: hình nó như hai bắp chuối; kẻ rờ nhằm hai tai thì tâu: hình nó giống như cái quạt mo, kẻ rờ nơi đầu thì tâu: không phải như chuối, mo, mà như cục đá; kẻ rờ trúng cái vòi thì trả lời giống như khúc chày; kẻ rờ phải chân nói voi giống như chiếc cối; có kẻ bộ cao con nên rờ đến trên lưng thì tâu: con voi giống như chiếc giường nằm, kẻ lùn rờ nơi bụng thì tâu: như cái lu; và kẻ rờ nhằm cái đuôi thì tâu: cái hình con voi chỉ giống như một đùm giây chớ chẳng giống gì khác.

Bọn người mù đã tâu, tuy chẳng nói hết được toàn thân con voi, nhưng ngoài cái mà họ đã nói thì không có voi. Tất cả pháp, tại sắc bất tại thọ, đều là Phật tánh vậy.

Kinh Niết Bàn

Ở trong một mảy trần thấy đủ các thế giới chúng sanh nghe điều này phát cuồng tâm mê loạn.

Kinh Hoa Nghiêm

Đức Di Lặc Bồ tát bảo Ngài Diệu Cát Tường rằng: "Tôi không thể cúng dường Đức Như Lai được. Tại sao thế? Vì Như Lai Chơn Như, không có hai tướng, Chơn NhưNhư Lai vậy".

Ngài Diệu Cát Tường hỏi: Sao Ngài biết không có hai tướng? Ngài Di Lặc đáp: Vì sanh khởi tâm phân biệt sai khác rồi cho: đây là phiền não, kia là xuất thế gian, nên có hai tướng. Nếu liễu đạt được nhứt tánh tất cả mọi pháp như thế cả thời không có hai tướng.

Đối với hai tướng, nếu chẳng bị tùy theo thức nó chuyển biến khởi các tướng phân biệt thời không có hai tướng.

Kinh Thần Thông Cảnh Giới 

Cảnh giới các Đức Phật Thế Tôn không thể so sánh được, vì cảnh giới bất khả tư nghì. Có chỗ đã gọi: Tất cả các đức Phật ngồi xếp bằng tréo chân một chỗ mà biến đầy khắp mười phương vô lượng thế giới. Tất cả các Đức Phật nói nghĩa một câu đều có thể mở bày, tất cả Phật pháp. Tất cả các Đức Phật phóng một ánh hào quang đều có thể soi khắp tất cả thế giới. Tất cả các Đức Phật với trong một thân, đều có thể thị hiện tất cả các thân. Tất cả các Đức Phật với trong một chỗ, đều có thể thị hiện tất cả thế giới. Tất cả các Đức Phật với trong một trí, đều có thể thấu rõ tất cả các pháp. Tất cả các Đức Phật với trong một niệm, đều có thể trụ mười phương thế giới. Tất cả các Đức Phật với trong một niệm, đều có thể hiển hiện vô lượng oai đức của Như Lai. Tất cả các Đức Phật với trong một niệm, khắp duyên ba đời Phật và chúng sanhtâm không lộn xộn. Và tất cả các Đức Phật với trong một niệm, cùng với các Đức Phật quá khứ, hiện tại vị lai thể một không hai vậy.

Kinh Hoa Nghiêm

Bồ tát biết tất cả cảnh giới trong thế giancảnh giới của Như Lai. Tất cả cảnh giới ba đời, tất cả cõi cảnh giới, tất cả pháp cảnh giới, tất cả chúng sanh cảnh giới, cõi chơn thật không sai khác cảnh giới, pháp giới không ngăn ngại cảnh giới, thật tế không ngằn mé cảnh giới, hư không không hạn lượng cảnh giới, cảnh giới không có cảnh giớiNhư Lai cảnh giới. Cảnh giới của thế gian nhiều vô lượng thì cảnh giới của Như Lai cũng nhiều vô lượng.

Kinh Hoa Nghiêm

Người đời buông lung say mê trong năm món dục, vọng tưởng xằng bậy mà gây tội khổ. Vậy nên siêng năng tu hành chẳng buông lung, phụng hành Phật pháp, lập đại thệ nguyện, năng độ kẻ mê ấy là Phật cảnh giới. Thấy kẻ mê lầm lạc đường Chánh Đạo, tập thành các tà hạnh đọa vào các thú, ở lâu trong chốn rất tối tăm; vì những kẻ ấy hiện ra đèn trí huệ khiến thấy Phật pháp, là Phật cảnh giới.

Nước biển trong ba cõi sâu rộng mênh mông không bờ đáy; các chúng sanh nối chìm trong đó, dùng phương tiện tạo thành con thuyền Chánh pháp để độ qua, là Phật cảnh giới vậy.

Kinh Hoa Nghiêm

Cảnh giới các Đức Phật chẳng khá nghĩ bàn, tất cả chúng sanh suy lường cảnh giới Phật, thời tâm phát cuồng loạn.

Kinh Bát Nhã 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49777)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34656)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33468)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43957)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57113)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47592)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39441)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38494)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52981)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36624)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32259)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40512)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43514)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31480)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46734)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36228)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28726)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29267)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31919)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28863)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33400)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29168)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 61022)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39809)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26707)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29701)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37416)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40121)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26867)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42702)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37302)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28316)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28910)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26415)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27188)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26207)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34708)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27833)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30496)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33318)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28588)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30100)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25501)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21864)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51347)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26750)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28641)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27731)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24375)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27491)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31975)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30218)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27734)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35486)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27477)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30043)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31804)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23049)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24208)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23053)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant