Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

a. Thật tướng của muôn vật

13 Tháng Hai 201100:00(Xem: 11463)
a. Thật tướng của muôn vật

KINH LỜI VÀNG 
Tác giả: Dương Tú Hạc
Dịch giả: HT Thích Trí Nghiêm
 

PHẦN III – NHƠN QUẢ

CHƯƠNG I  

MUÔN VẬT TRONG VŨ TRỤ

(Chương này hơi khó hiểu, vì đạo lý cao siêu. Lời dịch giả)


A. THẬT TƯỚNG CỦA MUÔN VẬT

Gây Quả là Nhơn, được Quả là Quả.

Luận Chỉ Quán

Thật tướng là mẹ cuả các đức Phật ba đời.

Kinh Bát Nhã

Nầy các Thiện nam tử! Bồ Tát trụ đạo mới thấy chơn nghĩa các pháp. Chơn ấy là chơn thật vậy. Mà thật nghĩa là in như hư không tức là chơn như. Chơn như là tự mình thân chứng bên trong, chớ chẳng phải dùng văn tự mà có thể phô bày được. Tại sao? Vì nó siêu vượt tất cả văn tự ngôn thuyết và những lời nói vô nghĩa vậy. Nó xa lìa các tướng ra vào, phân biệt, xa lìa các cảnh giới tà maphiền não. Tự tính yên lặng, nên không nhơ, và không thấm nhơ, rất trong sạch mầu nhiệm hơn hết. Thường trú bất động chẳng hoại diệt; nếu các đức Phật có ra đời, hoặc không ra đời nó vẫn thường trú mà chẳng biến đổi.

Nay các Bồ tát vì muốn làm lợi ích cho các Thiện nam tử, nên mới đem sức dũng mãnh tinh tiến mà chứng lấy vậy thôi; nên mới có nhiều tên gọi sai khác là: chơn như, thật tướng, nhất thế trí, nhất thế chủng tríbất khả tư nghì v.v... Cho nên chúng ta, nhờ dùng trí huệ nghe, hoặc suy nghĩ chớ chưa được khéo chứng.

Ví như có người gặp mùa nóng bức mà đang đi giữa đồng nội; người này từ Đông đi qua Tây; lại có người khác từ Tây đi qua Đông. Người qua Tây vì khát nước rất ngặt, gặp người từ Đông qua liền hỏi thăm nước để uống. Người từ Đông qua đáp: "cách đây chẳng xa có một suối nước, tôi mới vừa uống, từ đây qua đó, giữa đường có hai đường trẽ, anh nên đi trẽ qua đường bên hữu, mà đừng đi đường bên tả, thời anh sẽ thấy trên quả núi có đám rừng xanh biếc; trong đám rừng ấy có một suối nước mát mẻ, có thể giải khát cho anh."

Nầy các Thiện nam tử! Người kia bị nắng nóng và khát nước khó chịu lắm, nhưng nhờ nghe được tên nước mà có thể chữa được bịnh khát nước. Người bị khổ khát nước ấy, trong thân sẵn có nước thanh tịnh, nhiên hậu mới trừ được bịnh nóng và khát. Cũng như chỉ nghe và suy nghĩ như thế, chớ chẳng phải đã chứng được chơn như.

Này các Thiện nam tử! Đồng nội, chỉ cho sanh tử. Nóng và khát, chỉ cho vì nóng phiền não mà bị khát. Kẻ chỉ đường, chỉ cho Bồ tát Thiện tri thức. Mình tự uống, chỉ cho phương tiên khéo léo vậy.

Kinh Bảo Võ

Tâm chơn nhưbản thể đại tổng tướng pháp môn của nhất pháp giới vậy. Có chỗ đã gọi là tâm tính chẳng sanh chẳng diệt, cả thảy các pháp chỉ do vọng niệm mà có sai khác. Nếu xa lìa vọng niệm thời không có tướng sai khác của tất cả các cảnh giới. Cho nên tất cả các pháp từ hồi nào đến giờ, xa tướng nói phô, lìa tướng danh tựxa lìa các tướng tâm duyên rốt ráo bình đẳng không có biến đổi sai khác, không thể phá hoại; duy chỉ nhất tâm, nên gọi là chơn như.

Bởi vì tất cả lời nói phô là gia danh chứ không thật, chỉ tùy theo vọng niệm, chứ chẳng khá được vậy. Mà nói là chơn như cũng không có tướng, nghĩa là cùng tột của lời nói vậy thôi, bởi vì đem lời nói để khiển trừ lời nói, mà bản thể của chơn như không thể khiển trừ được, vì tất cả pháp đều là "chơn", và cũng không thể thành lập được, vì tất cả pháp đều là "như".

Cho nên phải biết, tất cả pháp chẳng khá nói, chẳng khá nghĩ, cho nên gọi là chơn như.

Có lời hỏi: Nếu như các nghĩa vừa nói trên, thì các chúng sanh làm sao "thuận theo" mà có thể "chứng vào" được?

Đáp: Nếu biết tất cả pháp, tuy nói mà không có pháp hay nói và bị nói; tuy nghĩ mà cũng không có pháp hay nghĩ và bị nghĩ. Ấy là thuận theo, nghĩa là nếu xa lìa được vọng niệm gọi là được chứng vào.

Lại nữa: Chơn như, mà nương theo sự phân biệt do lời nói phô thì có hai nghĩa: một là như thật không, vì hay hiện thật rốt ráo vậy; hai là như thật bất không, vì tự thể có đầy đủ tánh công đức vô lậu vậy.

Nói rằng: "như thật không" là từ hồi nào đến giờ, nó chẳng tương ưng với tất cả các pháp ô nhiễm nghĩa là xa lìa tướng sai khác của tất cả các pháp, bởi vì nó không có tâm niệm hư vọng vậy.

Và phải biết: tự tánh của chơn như, chẳng phải có tướng, chẳng phải không tướng, chẳng phải chẳng có tướng, chẳng phải chẳng không tướng; chẳng phải tướng có không chung lại. Chẳng phải nhất tướng, chẳng phải dị tướng; chẳng phải chẳng nhất tướng, chẳng phải chẳng dị tướng; và cho đến nói tóm tắt.

Bởi tất cả chúng sanh đem vọng tâm mỗi niệm phân biệt đều chẳng tương ưng, cho nên nói là "không". Nếu rời vọng tâm, thật không thể nói là "không" vậy.

Còn nói rằng "bất không" là vì đã hiển hiện pháp thể, thời không còn vọng tâm, tức là chơn như, thường hằng chẳng biến đổi, các pháp trong sạch đầy đủ, nên gọi là "bất không". Cũng không có tướng có thể nắm lấy được vì nó xa lìa cảnh giới tâm tướng, duy chỉ chứng được mới tương ưng mà thôi.

Luận Đại Thừa Khởi Tín

Tướng của các pháp như trò huyển thuật, không có tự tánh cũng không có tha tánh, xưa kia tự nhiên, nên nay chẳng diệt.

Kinh Duy Ma Cật

Tự tính của các pháp chẳng khá được, in như hành dâm trong chiêm bao thảy đều hư giả.

Kinh Bảo Tích

Hiểu thấu các thế gian, giả danh không có thật, chúng sanhthế gian, như chiêm bao, ánh sáng.

Kinh Hoa Nghiêm

Rõ biết các thế gian, như ánh nắng, ánh sáng, như tiếng vang và mộng, như trò huyển và biến hóa.

Kinh Hoa Nghiêm

Đức Phật dạy ngài Đức Bổn rằng: Nầy Đức Bổn! Các pháp ước lược có 3 món: một là các pháp đều giả danhan lập, tùy theo mà khởi ra lời nói, là tướng chấp đắm của chúng sanh; hai là tất cả pháp do nhơn duyên sanh, nghĩa là do vô minh duyên sanh ra hành, cho đến duyên cuối cùng là nhóm họp một đống đại khổ; ba là hiện ra tướng trạng tuy có sai khác, nhưng bản tính của tất cả pháp ấy thảy đều bình đẳng chơn như. Biết được bản tính của các pháp như vậy, thời quay về lại bản tính.

Ví như có người mắt bị bệnh mù lòa, dụ cho món thứ nhất; như người mù lòa ấy, thấy các tướng hiện ra sai khác hoặc xanh vàng đỏ trắng, dụ cho món thứ hai; như khi người ấy trừ được bệnh mù lòa, mắt được trong sáng, biết được bản tính, là dụ cho món thứ ba.

Kinh Giải Thâm Mật

Các pháp do nhơn duyên sanh khởi, không có tự tính, vì không có tự tính, tức là rốt ráo "không"; cái rốt ráo "không" ấy, từ hồi nào đến giờ vẫn là "không", chớ chẳng phải Phật hay người nào làm cho nó mới bị "không".

Luận Trí Độ

Các pháp chẳng phải có, cũng chẳng phải không, vì do nhơn duyên phát khởi các pháp vậy.

Kinh Duy Ma Cật

Bồ tát dùng chánh niệmquan sát các pháp trong thế gian đều bởi nghiệp duyên mới có, và quan sát tất cả pháp đều do nhơn duyênphát khởi, không có sanh cho nên không có diệt.

Kinh Hoa Nghiêm

Đức Phật dạy: Tự tính của các pháp, xưa nay vắng lặng, là tự tánh Niết bàn; vì Niết bàn nên chẳng nhận được tự tính, nên nói là không có tự tính. Vì chấp đắm các pháp là có, nên mới có tướng chúng sanh, chỉ là giả danhkhông thật có.

Lại nữa, các pháp do nhơn duyên mới được thành lập, thế thì giả dối là có; mà chơn thật thời không.

Lại nữa: bản tính của các pháp, chẳng khá nghe, không sanh cũng không diệt.

Kinh Giải Thâm Mật

Các Đức Phật Như Lai đã chứng được pháp tính, pháp ấy, pháp nào an trụ vị trí pháp nầy; Như Lai có ra đời hay không ra đời, pháp ấy vẫn thường trú mà chẳng biến đổi.

Kinh Lăng Già

Này các Phật tử! Tướng chơn thật của các pháp là không có tướng, vì chẳng sanh chẳng diệt; chẳng thường chẳng đoạn; chẳng một chẳng khác; chẳng đến và chẳng đi.

Kinh Phạm Võng

Tất cả chúng sanh đều "Nhu", tất cả các pháp đều "Nhu", các bậc Hiền Thánh cũng đều "Nhu", cho đến Ngài Di Lặc cũng là "Nhu" vậy.

Kinh Duy Ma Cật

Tất cả các pháp đều "Nhu", tất cả cảnh giới các Đức Phật cũng vậy, cho đến không có một pháp nào ở trong "Nhu" mà có sanh diệt; nhưng vì chúng sanh vọng phân biệt, nên mới có Phật và thế giới. Nếu hiểu thấu pháp tính thời không có Phật và thế giới.

Kinh Hoa Nghiêm

Tất cả pháp tính thường vắng lặng, không một pháp nào năng tạo tác.

Kinh Hoa Nghiêm

Pháp giới tức là Như Lai, vì đấy là chơn thân Như Lai vậy.

Kinh Tối Thắng Vương

Bấy giờ Ngài Đại Trang Nghiêm Bồ tát và tám muôn các vị Đại Bồ tát vừa nói xong bài kệ khen Phật, và đồng thành thưa Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Cả tám muôn Bồ tát chúng tôi nay đối trong chánh pháp của Như Lai có điều muốn thưa hỏi, vậy chẳng biết Thế Tôn có rũ lòng thương xótcho phép chăng?

Đức Phật bảo Ngài Đại Trang Nghiêm và tám muôn Đại Bồ tát rằng: Hay thay! Hay thay! Các Thiện nam tử, các ngươi khéo biết nhắm thời, mặc ý các ngươi muốn hỏi gì cứ hỏi; Như Lai chẳng còn bao lâu nữa sẽ vào Niết bàn. Sau khi ta vào Niết bàn khiến mọi chúng sanh không còn nghi ngờ gì nữa. Các ngươi muốn hỏi điều chi, thì nên hỏi ngay.

Liên khi ấy, Ngài Đại Trang Nghiêm cùng tám muôn Bồ tát tức thì đồng thanh mà thưa Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Đại Bồ tát muốn được mau trọn nên quả Chánh đẳng Chánh giác cao tột, cần nên tu hành những pháp môn nào? Và những pháp môn nào có năng lực khiến các Đại Bồ tát mau chứng được quả cao tột ấy.

Đức Phật bảo Đại Trang Nghiêm Bồ tát và tám muôn Bồ tát rằng: Các Thiện nam tử! Có một pháp môn khiến Bồ tát mau chứng được quả Chánh đẳng Chánh giác cao tột; nếu Bồ tát nào học được pháp môn ấy thì chắc mau được chứng quả cao tột kia.

Các Bồ tát thưa: Bạch đức Thế Tôn! Pháp môn ấy danh tự là gì? Nghĩa nó thế nào và Bồ tát làm sao tu học?

Phật dạy: Các Thiện nam tử! Pháp môn ấy gọi là "Vô lượng nghĩa". Bồ tát muốn được tu học pháp Vô lượng nghĩa, cần phải quan sát tất cả các pháp từ xưa đến nay tính, tướng văng lặng, không lớn không nhỏ, không sanh không diệt, chẳng trụ chẳng động, chẳng tiến chẳng thoái; in như hư không, không có hai thứ. Mà các chúng sanh luống dối quấy chấp: là đây là kia, là được là mất, rồi sanh niệm bất thiện, gây các ác nghiệp; do đó bị trôi lẵn trong sáu thú chịu bao khổ sở, vô lượng ức kiếp không thể tự ra khỏi. Các Đại Bồ tát quan sát kỹ càng như thế, mới sanh lòng thương xót, phát tâm đại từ bi mà cứu vớt chúng sanh.

Lại nữa: phải quan sát sâu vào trong tất cả các pháp; pháp nầy tướng như thế, nên "Sanh" pháp như thế, pháp nầy tướng như thế, nên "Trụ" pháp như thế; pháp nầy tướng như thế, nên "Dị" pháp như thế; pháp nầy tướng như thế, nên "Diệt" pháp như thế.

Pháp nầy tướng như thế, hay "Sanh" ác pháp; pháp này tướng như thế, hay "Sanh" thiện pháp. "Trụ, Dị, Diệt" cũng đều quan sát như thế.

Bồ tát quan sát đầu đuôi của bốn tướng như thế, hiểu biết tường tận khắp cả, rồi mới lần lữa quan sát kỹ càng, tất cả các pháp, từng mỗi niệm chẳng đứng dừng, mới mới luôn, vì sanh diệt; và lại quan sát: chính đang lúc sanh diệt ấy vẫn gồm đủ sanh, trụ, dị, diệt đủ bốn tướng.

Quan sát như thế rồi, mới quan sát sâu vào tính dục của các căn cơ chúng sanh; vì tính dục nhiều vô lượng nên nói pháp cũng phải nhiều vô lượng; vì nói pháp nhiều vô lượng thời nghĩa cũng nhiều vô lượng; mà nghĩa nhiều vô lượng là từ "một pháp" mà sanh ra; một pháp ấy tức là vô tướng vậy. Vô tướng như thế, là vô tướng tức bất tướng, bất tướng tức vô tướng, gọi là thật tướng.

Kinh Vô Lượng Nghĩa

Đức Thế Tôn từ trong chánh định quang minh xuất địnhthong thả đứng dậy rồi bảo Ngài Xá Lợi Phất rằng: Trí huệ của các đức Phật sâu thẳm không lường được, cửa trí huệ ấy khó hiểu khó vào, nên tất cả hàng Thanh VănBích Chi Phật không thể biết được. Ta đã từng gần gũi cúng dường các đức Phật nhiều vô số trăm ngàn vạn ức, và tu hết đạo pháp của các đức Phật nhiều vô lượng, cho nên danh tiếng mạnh mẽ tinh tấn được đồn khắp, và trọn nên pháp thẳm sâu chưa từng có, tùy theo căn cơ mà nói pháp, ý thú rất khó hiểu.

Nầy Xá Lợi Phất! Ta từ khi thành Phật đến nay, đã dùng các món nhơn duyên, thí dụ để rộng diễn nói giáo pháp, và dùng vô số phương tiện khéo léo để dắt dẫn chúng sanh, khiến xa lìa các chấp trước, ấy là Như Lai đầy đủ phương tiện tri kiến rốt ráo vậy.

Nầy Xá Lợi Phất! Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa, thiền định, giải thoát vô lượng, vô ngại, và sức vô sở úy quan sát sâu vào các pháp không ngằn mé, trọn nên tất cả các pháp chưa từng có.

Nầy Xá Lợi Phất! Như Lai hay dùng nhiều món phân biệt khéo léo mà nói pháp, lời lẽ êm dịu, để cho những kẻ nghe ưa thích. Này Xá Lợi Phất! Phật thảy đều trọn nên ngần ấy pháp chưa từng có, nhiều vô lượng vô biên. Nhưng thôi, Ta chẳng cần nói nữa. Những pháp mà Phật đã trọn nên là hiếm có và khó hiểu đệ nhứt, duy Phật với Phật mới có thể cùng tột thật tướng của các pháp. Gọi là thật tướnghành tướng các pháp như thế, tự tính như thế, bản thể như thế, năng lực như thế, tác dụng như thế, chánh chơn như thế, trợ duyên như thế, kết quả như thế, nghiệp báo như thế, và trước sau rốt ráo vẫn như thế.

Kinh Pháp Hoa

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19885)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 29008)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20721)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19471)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30551)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36477)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33280)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35615)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 21021)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21947)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25293)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25825)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31296)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18588)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25173)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23805)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28973)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20900)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31468)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25581)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29752)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22550)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25754)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23314)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25771)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23771)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40635)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23368)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22492)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22115)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23529)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16984)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23305)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24350)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41142)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 19021)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20516)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27749)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38156)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34098)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36819)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 24038)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29240)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60196)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27647)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68783)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24556)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24522)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22747)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26395)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26579)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20849)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20095)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27596)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46499)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53607)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23642)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21128)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25625)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29298)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant