Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

a. Thật tướng của muôn vật

13 Tháng Hai 201100:00(Xem: 11461)
a. Thật tướng của muôn vật

KINH LỜI VÀNG 
Tác giả: Dương Tú Hạc
Dịch giả: HT Thích Trí Nghiêm
 

PHẦN III – NHƠN QUẢ

CHƯƠNG I  

MUÔN VẬT TRONG VŨ TRỤ

(Chương này hơi khó hiểu, vì đạo lý cao siêu. Lời dịch giả)


A. THẬT TƯỚNG CỦA MUÔN VẬT

Gây Quả là Nhơn, được Quả là Quả.

Luận Chỉ Quán

Thật tướng là mẹ cuả các đức Phật ba đời.

Kinh Bát Nhã

Nầy các Thiện nam tử! Bồ Tát trụ đạo mới thấy chơn nghĩa các pháp. Chơn ấy là chơn thật vậy. Mà thật nghĩa là in như hư không tức là chơn như. Chơn như là tự mình thân chứng bên trong, chớ chẳng phải dùng văn tự mà có thể phô bày được. Tại sao? Vì nó siêu vượt tất cả văn tự ngôn thuyết và những lời nói vô nghĩa vậy. Nó xa lìa các tướng ra vào, phân biệt, xa lìa các cảnh giới tà maphiền não. Tự tính yên lặng, nên không nhơ, và không thấm nhơ, rất trong sạch mầu nhiệm hơn hết. Thường trú bất động chẳng hoại diệt; nếu các đức Phật có ra đời, hoặc không ra đời nó vẫn thường trú mà chẳng biến đổi.

Nay các Bồ tát vì muốn làm lợi ích cho các Thiện nam tử, nên mới đem sức dũng mãnh tinh tiến mà chứng lấy vậy thôi; nên mới có nhiều tên gọi sai khác là: chơn như, thật tướng, nhất thế trí, nhất thế chủng tríbất khả tư nghì v.v... Cho nên chúng ta, nhờ dùng trí huệ nghe, hoặc suy nghĩ chớ chưa được khéo chứng.

Ví như có người gặp mùa nóng bức mà đang đi giữa đồng nội; người này từ Đông đi qua Tây; lại có người khác từ Tây đi qua Đông. Người qua Tây vì khát nước rất ngặt, gặp người từ Đông qua liền hỏi thăm nước để uống. Người từ Đông qua đáp: "cách đây chẳng xa có một suối nước, tôi mới vừa uống, từ đây qua đó, giữa đường có hai đường trẽ, anh nên đi trẽ qua đường bên hữu, mà đừng đi đường bên tả, thời anh sẽ thấy trên quả núi có đám rừng xanh biếc; trong đám rừng ấy có một suối nước mát mẻ, có thể giải khát cho anh."

Nầy các Thiện nam tử! Người kia bị nắng nóng và khát nước khó chịu lắm, nhưng nhờ nghe được tên nước mà có thể chữa được bịnh khát nước. Người bị khổ khát nước ấy, trong thân sẵn có nước thanh tịnh, nhiên hậu mới trừ được bịnh nóng và khát. Cũng như chỉ nghe và suy nghĩ như thế, chớ chẳng phải đã chứng được chơn như.

Này các Thiện nam tử! Đồng nội, chỉ cho sanh tử. Nóng và khát, chỉ cho vì nóng phiền não mà bị khát. Kẻ chỉ đường, chỉ cho Bồ tát Thiện tri thức. Mình tự uống, chỉ cho phương tiên khéo léo vậy.

Kinh Bảo Võ

Tâm chơn nhưbản thể đại tổng tướng pháp môn của nhất pháp giới vậy. Có chỗ đã gọi là tâm tính chẳng sanh chẳng diệt, cả thảy các pháp chỉ do vọng niệm mà có sai khác. Nếu xa lìa vọng niệm thời không có tướng sai khác của tất cả các cảnh giới. Cho nên tất cả các pháp từ hồi nào đến giờ, xa tướng nói phô, lìa tướng danh tựxa lìa các tướng tâm duyên rốt ráo bình đẳng không có biến đổi sai khác, không thể phá hoại; duy chỉ nhất tâm, nên gọi là chơn như.

Bởi vì tất cả lời nói phô là gia danh chứ không thật, chỉ tùy theo vọng niệm, chứ chẳng khá được vậy. Mà nói là chơn như cũng không có tướng, nghĩa là cùng tột của lời nói vậy thôi, bởi vì đem lời nói để khiển trừ lời nói, mà bản thể của chơn như không thể khiển trừ được, vì tất cả pháp đều là "chơn", và cũng không thể thành lập được, vì tất cả pháp đều là "như".

Cho nên phải biết, tất cả pháp chẳng khá nói, chẳng khá nghĩ, cho nên gọi là chơn như.

Có lời hỏi: Nếu như các nghĩa vừa nói trên, thì các chúng sanh làm sao "thuận theo" mà có thể "chứng vào" được?

Đáp: Nếu biết tất cả pháp, tuy nói mà không có pháp hay nói và bị nói; tuy nghĩ mà cũng không có pháp hay nghĩ và bị nghĩ. Ấy là thuận theo, nghĩa là nếu xa lìa được vọng niệm gọi là được chứng vào.

Lại nữa: Chơn như, mà nương theo sự phân biệt do lời nói phô thì có hai nghĩa: một là như thật không, vì hay hiện thật rốt ráo vậy; hai là như thật bất không, vì tự thể có đầy đủ tánh công đức vô lậu vậy.

Nói rằng: "như thật không" là từ hồi nào đến giờ, nó chẳng tương ưng với tất cả các pháp ô nhiễm nghĩa là xa lìa tướng sai khác của tất cả các pháp, bởi vì nó không có tâm niệm hư vọng vậy.

Và phải biết: tự tánh của chơn như, chẳng phải có tướng, chẳng phải không tướng, chẳng phải chẳng có tướng, chẳng phải chẳng không tướng; chẳng phải tướng có không chung lại. Chẳng phải nhất tướng, chẳng phải dị tướng; chẳng phải chẳng nhất tướng, chẳng phải chẳng dị tướng; và cho đến nói tóm tắt.

Bởi tất cả chúng sanh đem vọng tâm mỗi niệm phân biệt đều chẳng tương ưng, cho nên nói là "không". Nếu rời vọng tâm, thật không thể nói là "không" vậy.

Còn nói rằng "bất không" là vì đã hiển hiện pháp thể, thời không còn vọng tâm, tức là chơn như, thường hằng chẳng biến đổi, các pháp trong sạch đầy đủ, nên gọi là "bất không". Cũng không có tướng có thể nắm lấy được vì nó xa lìa cảnh giới tâm tướng, duy chỉ chứng được mới tương ưng mà thôi.

Luận Đại Thừa Khởi Tín

Tướng của các pháp như trò huyển thuật, không có tự tánh cũng không có tha tánh, xưa kia tự nhiên, nên nay chẳng diệt.

Kinh Duy Ma Cật

Tự tính của các pháp chẳng khá được, in như hành dâm trong chiêm bao thảy đều hư giả.

Kinh Bảo Tích

Hiểu thấu các thế gian, giả danh không có thật, chúng sanhthế gian, như chiêm bao, ánh sáng.

Kinh Hoa Nghiêm

Rõ biết các thế gian, như ánh nắng, ánh sáng, như tiếng vang và mộng, như trò huyển và biến hóa.

Kinh Hoa Nghiêm

Đức Phật dạy ngài Đức Bổn rằng: Nầy Đức Bổn! Các pháp ước lược có 3 món: một là các pháp đều giả danhan lập, tùy theo mà khởi ra lời nói, là tướng chấp đắm của chúng sanh; hai là tất cả pháp do nhơn duyên sanh, nghĩa là do vô minh duyên sanh ra hành, cho đến duyên cuối cùng là nhóm họp một đống đại khổ; ba là hiện ra tướng trạng tuy có sai khác, nhưng bản tính của tất cả pháp ấy thảy đều bình đẳng chơn như. Biết được bản tính của các pháp như vậy, thời quay về lại bản tính.

Ví như có người mắt bị bệnh mù lòa, dụ cho món thứ nhất; như người mù lòa ấy, thấy các tướng hiện ra sai khác hoặc xanh vàng đỏ trắng, dụ cho món thứ hai; như khi người ấy trừ được bệnh mù lòa, mắt được trong sáng, biết được bản tính, là dụ cho món thứ ba.

Kinh Giải Thâm Mật

Các pháp do nhơn duyên sanh khởi, không có tự tính, vì không có tự tính, tức là rốt ráo "không"; cái rốt ráo "không" ấy, từ hồi nào đến giờ vẫn là "không", chớ chẳng phải Phật hay người nào làm cho nó mới bị "không".

Luận Trí Độ

Các pháp chẳng phải có, cũng chẳng phải không, vì do nhơn duyên phát khởi các pháp vậy.

Kinh Duy Ma Cật

Bồ tát dùng chánh niệmquan sát các pháp trong thế gian đều bởi nghiệp duyên mới có, và quan sát tất cả pháp đều do nhơn duyênphát khởi, không có sanh cho nên không có diệt.

Kinh Hoa Nghiêm

Đức Phật dạy: Tự tính của các pháp, xưa nay vắng lặng, là tự tánh Niết bàn; vì Niết bàn nên chẳng nhận được tự tính, nên nói là không có tự tính. Vì chấp đắm các pháp là có, nên mới có tướng chúng sanh, chỉ là giả danhkhông thật có.

Lại nữa, các pháp do nhơn duyên mới được thành lập, thế thì giả dối là có; mà chơn thật thời không.

Lại nữa: bản tính của các pháp, chẳng khá nghe, không sanh cũng không diệt.

Kinh Giải Thâm Mật

Các Đức Phật Như Lai đã chứng được pháp tính, pháp ấy, pháp nào an trụ vị trí pháp nầy; Như Lai có ra đời hay không ra đời, pháp ấy vẫn thường trú mà chẳng biến đổi.

Kinh Lăng Già

Này các Phật tử! Tướng chơn thật của các pháp là không có tướng, vì chẳng sanh chẳng diệt; chẳng thường chẳng đoạn; chẳng một chẳng khác; chẳng đến và chẳng đi.

Kinh Phạm Võng

Tất cả chúng sanh đều "Nhu", tất cả các pháp đều "Nhu", các bậc Hiền Thánh cũng đều "Nhu", cho đến Ngài Di Lặc cũng là "Nhu" vậy.

Kinh Duy Ma Cật

Tất cả các pháp đều "Nhu", tất cả cảnh giới các Đức Phật cũng vậy, cho đến không có một pháp nào ở trong "Nhu" mà có sanh diệt; nhưng vì chúng sanh vọng phân biệt, nên mới có Phật và thế giới. Nếu hiểu thấu pháp tính thời không có Phật và thế giới.

Kinh Hoa Nghiêm

Tất cả pháp tính thường vắng lặng, không một pháp nào năng tạo tác.

Kinh Hoa Nghiêm

Pháp giới tức là Như Lai, vì đấy là chơn thân Như Lai vậy.

Kinh Tối Thắng Vương

Bấy giờ Ngài Đại Trang Nghiêm Bồ tát và tám muôn các vị Đại Bồ tát vừa nói xong bài kệ khen Phật, và đồng thành thưa Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Cả tám muôn Bồ tát chúng tôi nay đối trong chánh pháp của Như Lai có điều muốn thưa hỏi, vậy chẳng biết Thế Tôn có rũ lòng thương xótcho phép chăng?

Đức Phật bảo Ngài Đại Trang Nghiêm và tám muôn Đại Bồ tát rằng: Hay thay! Hay thay! Các Thiện nam tử, các ngươi khéo biết nhắm thời, mặc ý các ngươi muốn hỏi gì cứ hỏi; Như Lai chẳng còn bao lâu nữa sẽ vào Niết bàn. Sau khi ta vào Niết bàn khiến mọi chúng sanh không còn nghi ngờ gì nữa. Các ngươi muốn hỏi điều chi, thì nên hỏi ngay.

Liên khi ấy, Ngài Đại Trang Nghiêm cùng tám muôn Bồ tát tức thì đồng thanh mà thưa Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Đại Bồ tát muốn được mau trọn nên quả Chánh đẳng Chánh giác cao tột, cần nên tu hành những pháp môn nào? Và những pháp môn nào có năng lực khiến các Đại Bồ tát mau chứng được quả cao tột ấy.

Đức Phật bảo Đại Trang Nghiêm Bồ tát và tám muôn Bồ tát rằng: Các Thiện nam tử! Có một pháp môn khiến Bồ tát mau chứng được quả Chánh đẳng Chánh giác cao tột; nếu Bồ tát nào học được pháp môn ấy thì chắc mau được chứng quả cao tột kia.

Các Bồ tát thưa: Bạch đức Thế Tôn! Pháp môn ấy danh tự là gì? Nghĩa nó thế nào và Bồ tát làm sao tu học?

Phật dạy: Các Thiện nam tử! Pháp môn ấy gọi là "Vô lượng nghĩa". Bồ tát muốn được tu học pháp Vô lượng nghĩa, cần phải quan sát tất cả các pháp từ xưa đến nay tính, tướng văng lặng, không lớn không nhỏ, không sanh không diệt, chẳng trụ chẳng động, chẳng tiến chẳng thoái; in như hư không, không có hai thứ. Mà các chúng sanh luống dối quấy chấp: là đây là kia, là được là mất, rồi sanh niệm bất thiện, gây các ác nghiệp; do đó bị trôi lẵn trong sáu thú chịu bao khổ sở, vô lượng ức kiếp không thể tự ra khỏi. Các Đại Bồ tát quan sát kỹ càng như thế, mới sanh lòng thương xót, phát tâm đại từ bi mà cứu vớt chúng sanh.

Lại nữa: phải quan sát sâu vào trong tất cả các pháp; pháp nầy tướng như thế, nên "Sanh" pháp như thế, pháp nầy tướng như thế, nên "Trụ" pháp như thế; pháp nầy tướng như thế, nên "Dị" pháp như thế; pháp nầy tướng như thế, nên "Diệt" pháp như thế.

Pháp nầy tướng như thế, hay "Sanh" ác pháp; pháp này tướng như thế, hay "Sanh" thiện pháp. "Trụ, Dị, Diệt" cũng đều quan sát như thế.

Bồ tát quan sát đầu đuôi của bốn tướng như thế, hiểu biết tường tận khắp cả, rồi mới lần lữa quan sát kỹ càng, tất cả các pháp, từng mỗi niệm chẳng đứng dừng, mới mới luôn, vì sanh diệt; và lại quan sát: chính đang lúc sanh diệt ấy vẫn gồm đủ sanh, trụ, dị, diệt đủ bốn tướng.

Quan sát như thế rồi, mới quan sát sâu vào tính dục của các căn cơ chúng sanh; vì tính dục nhiều vô lượng nên nói pháp cũng phải nhiều vô lượng; vì nói pháp nhiều vô lượng thời nghĩa cũng nhiều vô lượng; mà nghĩa nhiều vô lượng là từ "một pháp" mà sanh ra; một pháp ấy tức là vô tướng vậy. Vô tướng như thế, là vô tướng tức bất tướng, bất tướng tức vô tướng, gọi là thật tướng.

Kinh Vô Lượng Nghĩa

Đức Thế Tôn từ trong chánh định quang minh xuất địnhthong thả đứng dậy rồi bảo Ngài Xá Lợi Phất rằng: Trí huệ của các đức Phật sâu thẳm không lường được, cửa trí huệ ấy khó hiểu khó vào, nên tất cả hàng Thanh VănBích Chi Phật không thể biết được. Ta đã từng gần gũi cúng dường các đức Phật nhiều vô số trăm ngàn vạn ức, và tu hết đạo pháp của các đức Phật nhiều vô lượng, cho nên danh tiếng mạnh mẽ tinh tấn được đồn khắp, và trọn nên pháp thẳm sâu chưa từng có, tùy theo căn cơ mà nói pháp, ý thú rất khó hiểu.

Nầy Xá Lợi Phất! Ta từ khi thành Phật đến nay, đã dùng các món nhơn duyên, thí dụ để rộng diễn nói giáo pháp, và dùng vô số phương tiện khéo léo để dắt dẫn chúng sanh, khiến xa lìa các chấp trước, ấy là Như Lai đầy đủ phương tiện tri kiến rốt ráo vậy.

Nầy Xá Lợi Phất! Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa, thiền định, giải thoát vô lượng, vô ngại, và sức vô sở úy quan sát sâu vào các pháp không ngằn mé, trọn nên tất cả các pháp chưa từng có.

Nầy Xá Lợi Phất! Như Lai hay dùng nhiều món phân biệt khéo léo mà nói pháp, lời lẽ êm dịu, để cho những kẻ nghe ưa thích. Này Xá Lợi Phất! Phật thảy đều trọn nên ngần ấy pháp chưa từng có, nhiều vô lượng vô biên. Nhưng thôi, Ta chẳng cần nói nữa. Những pháp mà Phật đã trọn nên là hiếm có và khó hiểu đệ nhứt, duy Phật với Phật mới có thể cùng tột thật tướng của các pháp. Gọi là thật tướnghành tướng các pháp như thế, tự tính như thế, bản thể như thế, năng lực như thế, tác dụng như thế, chánh chơn như thế, trợ duyên như thế, kết quả như thế, nghiệp báo như thế, và trước sau rốt ráo vẫn như thế.

Kinh Pháp Hoa

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19736)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23989)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41245)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19721)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24031)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21755)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23328)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27519)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26583)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29347)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33231)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20214)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25800)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20943)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31356)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38610)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21464)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44298)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29858)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42249)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22152)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45801)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32142)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23986)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24418)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29307)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33944)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27708)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32182)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21095)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28878)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21619)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28111)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22091)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21458)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19539)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19491)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19850)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19281)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29224)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20640)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28317)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23672)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33222)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31875)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21416)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39663)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21585)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19404)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26430)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24854)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21767)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22412)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29164)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22583)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20483)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23560)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21253)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35371)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24569)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant