Viện
Nghiên Cứu Phật Học Việt
Nam
Phật Học Khái Luận
Thích Chơn Thiện In Lần Thứ Hai - 1997
Chương
Ba - Tăng Bảo
Tiết II
Liên hệ giữa Chư
Tăng và Cư Sĩ
Giáo hội Phật
giáo hiểu đúng là gồm có năm chúng xuất gia (Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni,
Sa-di, Thức-xoa-ma-na và Sa-di-ni) và hai chúng cư sĩ tại gia
(cận sự nam và cận sự nữ).
Chúng xuất gia thì ròng học Phật
pháp, thực hành Thiền định và hướng dẫn tu tập, nói pháp
cho chúng tại gia. Chúng tại gia thì hằng ngày gần gũi chúng
xuất gia để học hỏi giáo lý giải thoát và lo ủng hộ
chúng xuất gia bốn thứ cần thiết hằng ngày cho đời sống:
y phục, ngọa cụ, thực phẩm và y dược.
Cả hai chúng xuất gia và tại gia
đều là đệ tử của Thế Tôn. Cả hai đều nương tựa Thế
Tôn và đều ở trên đường về giải thoát. Chỉ có một
điều khác biệt giữa hai chúng đệ tử này là chúng xuất
gia thì có đủ điều kiện đi sâu vào giải thoát, còn ở
chúng tại gia thì bên cạnh việc tu tập giải thoát còn mang
nặng gánh gia đình và xã hội. Vì thế, Thế Tôn đã thiết
lập giới luật riêng thích hợp với hai chúng đệ tử này.
Giáo lý giải thoát như Duyên khởi, Tứ Ðế v.v. được Thế
Tôn dạy chung cho cả hai chúng. Riêng chúng tại gia, Thế Tôn
dạy riêng pháp bố thí trước khi đi vào học hỏi và tu tập
Ba mươi bảy phẩm trợ đạo và một số giáo lý thực tiễn
khác, như làm thế nào để sống có hạnh phúc trong hiện
tại và tương lai với đời sống gia đình.
Nguyên tắc giáo dục của Thế Tôn
là tùy theo điều kiện sống, điều kiện nhận thức và nhân
duyên giải thoát của từng cá nhân mà dạy pháp môn thích
hợp. Theo nếp giáo dục ấy, chư Tăng cũng nói pháp, giảng
giải giáo lý cho hàng tại gia.
Một hôm, cư sĩ thôn trưởng Asibandhakaputta
bạch hỏi Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, vì sao đối với một
số người, Thế Tôn thuyết pháp một cách hoàn toàn trọn
vẹn, đối với một số người, Thế Tôn thuyết pháp không
hoàn toàn trọn vẹn?" (Tương Ưng IV, tr. 35).
Thế Tôn đã trả lời cho câu hỏi
của thôn trưởng bằng một ví dụ về ba thửa ruộng: một
thửa ruộng tốt, một thửa ruộng trung bình, và một thửa
ruộng xấu với đất độc, cứng và có chất muối, phèn.
Với ba thửa ruộng ấy thì người nông dân sẽ gieo trồng
thửa ruộng tốt trước tiên; rồi đến lượt gieo trồng
thửa ruộng bậc trung; sau hết là thửa ruộng xấu. Cũng thế,
Thế Tôn ví thửa ruộng tốt với hàng xuất gia, thửa ruộng
bậc trung với cư sĩ, và thửa ruộng xấu với hàng ngoại
đạo. Cả ba thửa ruộng lần lượt sẽ được gieo trồng
theo thứ tự ưu tiên với đầy đủ sự chăm sóc và kỹ thuật
gieo trồng. Cũng thế, cả ba hạng người kể trên đều được
Thế Tôn thứ tự giáo hóa với đầy đủ thiện pháp với
đầy đủ giáo lý giải thoát, vì cả ba đều cần nương
tựa Thế Tôn như là ánh sáng, như là nơi ẩn trú, nơi che
chở.
Về đám ruộng thứ ba, Thế Tôn
dạy dù nó có xấu nhưng ít nhất cũng dùng nó để cung cấp
thức ăn cho trâu bò.
Rồi Thế Tôn lại ví ba hạng người
trên với ba cái bình đựng nước: một cái tốt hoàn toàn;
cái thứ hai không bị nứt rạn nhưng bị thấm nước ra ngoài;
cái thứ ba vừa vị nứt rạn vừa bị thấm nước. Nếu phải
chứa nước thì người ta phải chứa đầy cái bình thứ nhất
trước, rồi đến lượt cái thứ hai và thứ ba, để có nước
mà sử dụng.
Cũng thế, Thế Tôn phải giáo hóa
hàng đệ tử xuất gia trước.
Như thế, ngoài Giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa
được áp dụng ở đoàn thể chư Tăng, các cư sĩ có thể
nghe, hiểu và thực hành những giáo pháp mà Thế Tôn đã dạy
cho chư Tăng, ngoài giáo lý bố thí và sống đời sống gia
đình hạnh phúc được dành riêng cho cư sĩ.
Các cư sĩ có thể nghe thuyết giảng
từ Thế Tôn hay từ chư Tăng, chư Ni. Theo Nikàya, cư sĩ có
thể đắc quả Thánh từ Tu-đà-hoàn (sơ quả) cho đến A-la-hán
(tứ quả). Lại có chỗ, như Trung Bộ Kinh bảo rằng nếu
ở tại gia thì nam cư sĩ chỉ đắc quả cao nhất là A-na-hàm,
nữ cư sĩ đắc quả cao nhất là Tư-đa-hàm. Nhưng cũng ở
Nikàya, Tiểu Bộ Kinh thuật trường hợp hoàng hậu Khemà,
vợ của vua Tần-bà-sa-la đắc đến quả A-la-hán trước khi
xuất gia. Lại nữa, theo Kinh Ðại Bổn (Trường Bộ Kinh),
vua Tịnh Phạn đắc A-la-hán ngay khi xả báo thân.
Thường thì cư sĩ sau khi đắc quả
A-na-hàm liền xuất gia để tiếp tục chứng đắc A-la-hán.
Quả vị A-la-hán, theo truyền thống, luôn luôn phải ở hàng
ngũ của chư Tăng và chư Ni xuất gia thọ Cụ túc giới.
Cư sĩ được phép cúng dường trai
tăng cho Tăng chúng, Ni chúng; hoặc giới hạn một số chư
Tăng và chư Ni xuất; cũng được phép biệt thỉnh chư Tăng,
Ni thụ trai ở tư gia.
Mỗi kỳ Bố-tát, các cư sĩ được
phép nghe Bát quan trai giới. Sau khi nghe giới, có thể nghe thuyết
giảng kinh trước khi trở về nhà riêng để tự mình hành
"Bát quan trai giới" trong vòng một ngày một đêm. Ðấy là
sống một ngày xuất gia.
Có hai trường hợp mà chư Tăng
kiết giới ngăn chư Tăng đến nhà một cư sĩ. Trường hợp
một cư sĩ rất hảo tâm cúng dường, nhưng vì quá nghèo,
nên chư Tăng họp mặt làm phép Yết-ma không đến nhà cư
sĩ đó. Lý do duy nhất là vì thương tưởng đến cư sĩ đó.
Nhưng, nếu có điều kiện thừa các vật cúng dường, thì
chư Tăng có thể đem biếu tặng cư sĩ nghèo này, tạo điều
kiện cho cư sĩ học hỏi và hành đạo.
Trường hợp thứ hai, một cư sĩ
ác giới, gây nhiều tai tiếng cho chư Tăng, thì chư Tăng làm
pháp Yết-ma không chấp nhận cư sĩ ấy là Phật tử, không
tiếp và không đến nhà cư sĩ ấy.
Tại gia đình, một Phật tử tại
gia (dù nam hay nữ, lớn hay nhỏ, không phân biệt giai cấp
và trình độ) có thể tự mình thực hành những lời Thế
Tôn dạy, tùy theo nguyện vọng và khả năng của mình. Phật
tử tại gia có thể hành ngũ giới, thập giới, bát quan trai
giới, hành bố thí và Thiền định. Ngoài ra, để sống đời
sống gia đình được hạnh phúc, người cư sĩ còn thực hiện
thêm một số lời dạy khác của Thế Tôn.
Bây giờ, chúng ta đi vào tìm hiểu
các pháp hành trì của người Phật tử tại gia qua sử chỉ
dạy, hướng dẫn của chư Tăng, chư Ni.
Các Kinh đề cập đến sự tu tập
của cư sĩ thì có rất nhiều, đại để chúng ta có thể
dựa vào một số Kinh căn bản của A-hàm và Nikàya, như kinh
Singàla (Trường Bộ IV, số 31), Kinh Thiện Sinh hay Thi-ca-la-việt
(Trường A-hàm số 16), kinh Ưu-bà-tắc (Trung A-hàm, số 135;
Trung A-hàm số 128); (Tăng Chi Bộ II và III; Kinh Trì Trai; Trung
A-hàm số 202) và (Thiên Ba, Kinh Trung A-hàm, số 37).
Ngũ giới: (Kinh
Singala
và Kinh Thiện Sinh)
Năm giới mà cho đến nay vẫn là
giới căn bản của mỗi Phật tử tại gia, thường được
chư Tăng truyền thọ trong lễ Quy y Tam Bảo là:
1. Không được sát sinh (với
người cư sĩ thì chỉ giữ phần chính là không được giết
người; nếu giữ không giết loài vật nữa thì càng tốt).
2. Không được lấy những gì mà
người khác không cho. Nói gọn lại là không được trộm
cắp.
3. Không được tà hạnh trong các
dục. Nói gọn là không được tà dâm. Nói rõ là liên hệ
tình dục chỉ giới hạn giữa vợ chồng theo quy định luân
lý xã hội.
4. Không được nói dối, không được
nói lời đâm thọc, không được nói lời độc ác, không
được nói lời phù phiếm làm mê hoặc người.
5. Không được uống rượu hay các
chất có men say.
Trong hai Kinh Singàla và Thiện Sinh thì
chỉ đề cập đến bốn giới đầu, nhưng các Kinh khác thì
có đề cập thêm giới thứ năm, giới thứ năm ở trên cũng
là giới thứ năm của "Bát quan trai giới".
Thế Tôn đã cắt nghĩa cho Singàla
(Thiện Sinh) rằng có bốn động cơ thúc đẩy người ta gia
phạm năm giới cấm trên; người Phật tử thì giữ năm giới
ấy không để vi phạm dù vì lý do nào:
- Ðộng cơ thứ nhất gây
ra phạm giới là tham dục; động cơ thứ hai là sân hận;
động cơ thứ ba là si mê; động cơ thứ tư là sợ hãi.
Người Phật tử giữ năm giới trên
thanh tịnh thì tránh được nhiều phiền muộn, khổ đau gây
ra trong hiện tại và khỏi rơi vào địa ngục; giữ vững
tư cách của con người.
Ngoài lợi ích cho tự thân người
giữ giới, việc gìn giữ năm giới cấm trên còn đem lại
an lạc và nhiều lợi ích cho tha nhân. Tha nhân nhờ việc giữ
giới của mình mà tránh khỏi bị hại sinh mệnh, tránh khỏi
bị mất trộm, mất cắp, tránh khỏi những đổ vỡ tình
cảm của gia đình do đệ tam nhân gây ra, tránh khỏi bị lừa
đảo và tránh khỏi các hậu quả không lường được do người
say rượu gây ra.
Giữ được giới thứ nhất là
người Phật tử nuôi dưỡng tình người và nuôi dưỡng lòng
từ bi. Tình thương và từ bi được nuôi dưỡng có nghĩa
là xua tan dần đi sân hận, ganh ghét. Giới này vừa đem lại
an lạc cho người hành trì và cho xã hội, vừa làm trong sáng
tâm hồn, tình cảm con người.
Giữ giới thứ hai, người giữ
giới khỏi rơi vào vòng tù tội, khỏi bị người đời khinh
chê, trong khi đó, những người khác không bị sầu muộn vì
mất của cải, xã hội được an ổn hơn.
Giữ giới thứ ba, người giữ giới
không lo sợ đổ vỡ tình cảm của gia đình tự thân, không
lo sợ bị tình địch hãm hại và không bị người khác khinh
chê; trong lúc đó các gia đình khác cũng được sống trong
bình yên, không bị xáo trộn do các vụ đổ vỡ tình cảm
gây ra. Xã hội được thêm phần ổn định ở mặt xã hội.
Giữ giới thứ tư, người giữ
giới được người khác tin cậy, không bị nghi ngờ lòng
thành thực, không bị khinh chê, và giữ được tính tình ngay
thẳng, trung trực. Trong khi ấy, tha nhân tránh được các hậu
quả không lường trước được do việc nói dối, nói lừa
đảo gây ra.
Giữ được giới thứ năm, người
giữ giới nuôi dưỡng được tánh tình trầm lặng, ổn định,
phát triển được tư duy và tránh được các hậu quả tai
hại do sự thác loạn, đập phá do cơn say gây ra cho tự thân,
gia đình và tha nhân. Giữ được giới này, tư cách của người
giữ giới trở nên đứng đắn, nghiêm chỉnh, biết xấu hổ
về các điều làm sai quấy của mình.
Nếu các Phật tử tại gia hành
trì năm giới cấm trên, thì đã có thể đóng góp khá nhiều
vào một đời sống an ổn và hạnh phúc cho tự thân, cho gia
đình và xã hội.
Tương lai, theo kết quả của nghiệp,
có thể sanh lại làm Người.
Thập Thiện
giới:
Ðược Thế Tôn dạy rất nhiều
qua các Kinh, dưới hình thức hộ trì ba nghiệp thân, khẩu,
ý. Mười giới này dành chung cả hàng xuất gia và tại gia.
Tuy nhiên, với hàng tại gia thì mức độ hành trì được
giới hạn nhẹ hơn cho thích hợp với căn cơ và điều kiện
sống của mình. Nhưng, nếu cư sĩ nào có điều kiện để
hành trì sâu thập thiện giới này thì kết quả đem lại
cho đời hiện tại và cho cả đời sau tốt đẹp hơn và giải
thoát hơn.
1. Có ba giới về thân là
bất sát, bất đạo và bất dâm. Ba giới này tương tự ba
giới đầu của ngũ giới.
2. Có bốn giới về miệng là không
được nói dối, không được nói hai lưỡi, không được
nói lời độc ác, và không được nói lời phù phiếm, mộng
mị. Bốn giới này tương tự với giới thứ tư của ngũ
giới.
3. Có ba loại về ý là không được
tham lam, không được sân hận, và không được tà kiến.
Thường thì các giới chỉ tập trung
vào thân và khẩu, vào sự tướng. Ở đây có thêm ba giới
về ý. Tham, sân và si được đề cập trong ba giới cuối
không đòi hỏi người giữ giới phải hoàn toàn đoạn trừ,
mà chỉ cần đoạn trừ ở phần thô.
Với người xuất gia thì thập thiện
giới có nghĩa là giữ gìn ba nghiệp thân, khẩu, ý cho thanh
tịnh và đi đến đoạn trừ hoàn toàn tham, sân, si.
Ðặc biệt Kinh Phân Biệt Ðại
Nghiệp (Trung A-hàm, số 174; Ðại 1, 176-b) và Kinh Ðại Nghiệp
Phân Biệt (Trung Bộ Kinh, số 86) nêu lên một điểm rất đặc
biệt rằng Thế Tôn dùng thiên nhãn thấy rõ có một số chúng
sanh tuy đời này phần lớn hành mười điều ác nghiệp, nhưng
nhờ thiện nhân đời trước, cuối cuộc đời khởi lên các
cảm thọ lạc và phát khởi tín tâm vào Tam Bảo, có chánh
kiến về các pháp, và trước khi mệnh chung vẫn giữ lòng
tin và chánh kiến ấy thì được sanh về thiên giới; trong
khi đó, một số chúng sanh tuy phần lớn ở đời này hành
mười thiện nghiệp, nhưng vì nghiệp bất thiện quá khứ
khởi lên cảm thọ khổ vào cuối cuộc đời, và trước khi
chết không có chánh kiến và chánh tín vào ngôi Tam Bảo, nên
phải đọa vào ba đường dữ (địa ngục, ngạ quỷ, súc
sanh).
Bên cạnh việc hành mười nghiệp
thiện, người Phật tử cần có chánh kiến và cận tử nghiệp
tốt (có chánh kiến và chánh tín). Chánh kiến, chánh niệm
lúc mệnh chung là yếu tố quyết định cảnh giới thác sinh
cõi trời. Tà kiến, tà niệm lúc mệnh chung là nhân tố chính
quyết định đi xuống ba đường dữ.
Bát quan trai
giới: (Phẩm Ngày Trai Giới, Tăng Chi III Ð, 1981, tr. 232-234;
Kinh Trì Trai, Trung A-hàm, số 202).
Ngày trai giới (Uposatha) là ngày
mà một Phật tử tại gia tu tập hạnh xuất gia thanh tịnh
theo hạnh của một bậc A-la-hán. Có tám giới để giữ gìn,
hành trì trong ngày trai giới gọi là Bát quan trai giới. "Do
vì coi tám chi phần (hay tám giới) này như thuộc bậc A-la-hán,
ngang bằng, không khác nên gọi là trai". (Trung A-hàm, Kinh Trì
Trai).
Thế Tôn dạy nếu một ngày một
đêm tu tập Bát quan trai giới này thì sẽ có kết quả lớn,
lợi ích rất lớn. Thế nào là có kết quả lớn, lợi ích
lớn?
Thế Tôn giải thích:
"... Ở đây, có nam hay nữ Phật
tử nào, sau khi thực hành, thành tựu tám chi phần, sau khi
thân hoại mạng chung được sanh cộng trú với chư Thiên ở
cõi trời Tha Hóa Tự Tại, vô cùng hạnh phúc" (Tăng Chi III-A,
tr. 236).
Cõi trời Tha Hóa Tự Tại có tuổi
thọ là mười sáu ngàn năm. Mỗi năm của cõi trời này có
mười hai tháng; mỗi tháng có 30 ngày. Mỗi ngày đêm của
cõi trời này tính bằng một ngày sáu trăm năm của cõi người.
Thọ mạng của chư Thiên Tha Hóa Tự Tại tính ra thời gian
của con người là: (1.600x30x12x16.000) = 3.216 triệu năm hay 9,2
tỷ năm (xem Tăng Chi và Trung A-hàm).
Thế nào là Bát quan trai giới?
- Giới thứ nhất: "Cho đến trọn
đời, các vị A-la-hán đoạn tận sát sanh, từ bỏ sát sanh,
bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương
xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình.
Hôm nay, đêm này và ngày này, tôi cũng đoạn tận sát sanh,
từ bỏ sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có
lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng
sanh và loài hữu tình".
- Giới thứ hai: "... Hôm nay, đêm
này và ngày này, tôi cũng đoạn tận lấy của không cho, từ
bỏ lấy của không cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống
thanh tịnh không có trộm cắp".
- Giới thứ ba: "... Hôm nay, đêm
này và ngày này, tôi cũng đã đoạn tận phi Phạm hạnh, hành
Phạm hạnh, sống từ bỏ dâm dục hèn hạ".
- Giới thứ tư: "... Hôm nay, đêm
này và ngày này, tôi cũng đoạn tận nói láo, chỉ nói những
lời chân thật y chỉ nơi sự thật, chắc chắn đáng tin cậy,
không lường gạt đời".
- Giới thứ năm: "... Hôm nay, đêm
này và ngày này, tôi cũng đoạn tận đắm say rượu men, rượu
nấu, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu".
- Giới thứ sáu: ".... Hôm nay, đêm
này và ngày này, tôi cũng dùng mỗi ngày một bữa, không ăn
ban đêm, từ bỏ không ăn ban đêm, không ăn phi thời".
- Giới thứ bảy: "... Hôm nay, đêm
này và ngày này, tôi cũng từ bỏ không đi xem múa hát, nhạc,
diễn kịch, không trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu
thoa và các thời trang".
- Giới thứ tám: "... Hôm nay, đêm
này và ngày này, tôi cũng đoạn tận không dùng giường cao,
giường lớn, từ bỏ không dùng giường cao, giường lớn".
Ðây là tám giới được giữ gìn
trong ngày trai giới. Hạnh phúc của một người có quyền
lãnh đạo cả mười sáu quốc độ (một diện tích rộng
lớn ở Trung Ấn) với đầy đủ châu báu, uy quyền được
xem còn là nhỏ nhoi so với hạnh phúc của cõi Dục giới thiên
thứ nhất (Tứ Thiên Vương thiên) huống nữa là so với cõi
thứ sáu của Dục Giới thiên (Tha Hóa Tự Tại thiên).
Bát quan trai giới như thế là pháp
tu rất truyền thống của người Phật tử tại gia, đã được
kiết tập rõ ràng trong A-hàm và trong Nikàya, hai Tạng kinh
được xem là gần nguyên thủy nhất.
Tu Bát quan trai giới vừa gây được
nhân giải thoát xuất thế, vừa thể hiện được tinh thần
đạo ở trong đời, lại vừa là một ngày sống quân bình
tâm lý, một ngày sống đầy giác tinh mở hướng đi lên cho
tâm hồn, cần được thực hiện thành ngày tu truyền thống.
Ngày Bát quan trai, như được ghi ở Tăng Chi Bộ Kinh I, được
Thế Tôn ấn định vào sáu ngày trong mỗi tháng: 1, 8, 23, 14,
15 và ngày 30 Âm lịch. Ðặc biệt của sáu ngày này là: vào
ngày 8 và 23 thì thường có các đại thần của Tứ Thiên
Vương thiên hạ trần; ngày 14 và 30 thì các thiên tử của
Tứ Thiên Vương thiên hạ trần; ngày 1 và 15 thì chính Tứ
Thiên Vương thiên hạ trần để quan sát sự biểu hiện thiện
ác của người đời. Sự hưng vong của Tứ Thiên Vương thiên
có liên quan mật thiết tới cõi Người: Nếu người đời
tu thiện nhiều thì cõi Trời ấy hưng thịnh; nếu cõi Người
đi vào ác hạnh thì cõi Trời kia đi vào suy vong. Do lẽ đó
mà Tứ Thiên Vương thiên đặc biệt quan tâm nhìn xuống cuộc
đời trần thế.
Tương giao xã
hội: (Kinh Singàla, Trường Bộ Kinh IV; Kinh Thiện Sinh,
Trường A-hàm, số 16; và Trung A-hàm, số 135, đã đề cập
sơ lược ở chương Phật Bảo).
Ðức Thế Tôn, bên cạnh việc giảng
dạy con người giải thoát khổ đau, sinh tử. Ngài rất quan
tâm đến hạnh phúc của người đời, những người sống
ở gia đình, có nhiều trách nhiệm gia đình và xã hội.
Thế Toân, trong Kinh Singàla và Kinh
Thiện Sinh, nhìn mối tương hệ của con người là tương hệ
thiêng liêng, đáng tôn kính. Ngài xem mối tương hệ này là
tương hệ Phạm thiên. Có sáu mối tương hệ đáng tôn kính,
đáng đảnh lễ của người đời.
Trong khi chàng thanh niên Singàla đảnh
lễ sáu phương trời, thì Thế Tôn dạy chàng nên quay về
đảnh lễ sáu phương trong giáo pháp của bậc Thánh, của
Thế Tôn. Ðây chính là sáu mối liên hệ ở đời.
1. Tương hệ
giữa cha mẹ và con cái:
Phương Ðông là cha mẹ. Cha mẹ
là thiêng liêng, cao cả, đáng tôn kính đảnh lễ của con
cái. Ý nghĩa của đảnh lễ là nhấn mạnh bổn phận của
con cái đối với cha mẹ. Thế Tôn rất thiết thực, đưa
Singàla trở về thực tế với những bổn phận đối với
cha mẹ mà không phải là hình thức lễ bái. Khi cha mẹ còn
sống, người con phải biết vâng lời, làm vui lòng cha mẹ;
phải biết hầu hạ giúp đỡ cha mẹ một số công việc khi
cha mẹ cần đến; phụng dưỡng cha mẹ khi tuổi già, phải
biết giữ gìn gia phong, tiếng tăm, danh dự của gia đình,
phải biết bảo vệ tài sản của cha mẹ để lại; phải
biết giới thiệu đạo giải thoát đến với cha mẹ; nếu
có thể, phải lo tang lễ cho cha mẹ hẳn hoi.
Ðáp lại, cha mẹ có bổn phận
nuôi dưỡng và giáo dục con cái tốt; lo cho con học chữ và
học nghề; giúp đỡ con gần bạn lành và xa bạn xấu; đưa
con vào điều thiện và xa điều ác; lo việc cưới gã con
vào các gia đình tốt; chia tài sản cho con cái đúng lúc.
2. Tương hệ
giữa thầy giáo và học trò:
Phương Nam chính là thầy giáo. Tương
hệ giữa thầy và trò là một tương hệ cao cả, đẹp đẽ,
đáng tôn kính.
Học trò cần kính trọng và vâng
lời thầy; cần học hành chăm chỉ và thực hiện tốt các
điều thầy chỉ dạy; giúp đỡ và phục vụ cho thầy giáo
trong những khi thầy giáo cần sự giúp đỡ.
Ðáp lại, thầy giáo có bổn phận
phải dạy tốt, cung cấp kiến thức chuyên môn tốt; giúp
học trò thấy rõ bổn phận và hướng đi của tự thân trong
xã hội; giúp học trò chọn nghề nghiệp thích hợp và tạo
điều kiện cho học trò có cơ sở làm ăn khi rời khỏi nhà
trường.
Thật là thực tiễn khi Thế Tôn
dạy thầy giáo hướng nghiệp cho học trò và kiếm việc (nhiệm
sở) cho học trò sau khi học xong!.
3. Tương hệ
giữa chồng và vợ:
Phương Tây là chỉ mối quan hệ
giữa vợ chồng. Mối tương hệ này là thiêng liêng, đáng
được tôn kính đảnh lễ. Ý nghĩa thực sự của đảnh lễ
chính là công việc xây dựng mối tương hệ tốt và hạnh
phúc giữa hai người.
Người chồng cần phải yêu thương,
kính trọng và trung thành đối với người vợ, săn sóc chu
đáo đời sống kinh tế của người vợ với sự cung cấp
đầy đủ các tiện nghi vật chất; nuôi dưỡng tình cảm,
thường tặng quần áo, đồ trang sức.
Qua lời dạy này, chúng ta thấy
rõ mối quan tâm của Thế Tôn như thế nào đến hạnh phúc
lứa đôi. Thương yêu chưa đủ, hạnh phúc còn đòi hỏi các
nhu cầu thực tiễn hơn thế nữa. Thông thường thì khi đã
là vợ chồng, có người thường thiếu sự cảnh giác trong
thái độ đối xử với nhau; đây là một thiếu sót. Kính
trọng là một thái độ cần thiết trong tương giao của vợ
chồng; thái độ này nói lên sự kính trọng đầy tính người,
vừa làm cho tình yêu rực rỡ thêm trong đón nhận an lạc
và hạnh phúc. Thái độ kính trọng cần được thực hiện
từ đáy lòng và bền chặt; do vì kính trọng nên không được
gây tổn thương đến danh dự, giá trị của nhau bằng bất
cứ việc làm nào; yêu người khác là gây một tổn thương
lớn cho người bạn đời, do đó đòi hỏi phải trung thành
với nhau.
Hạnh phúc giữa hai người còn thực
tế liên hệ đến đời sống vật chất, kinh tế gia đình;
người vợ cần được người chồng bảo đảm các tiện
nghi sống. Khi lòng yêu thương và kinh tế gia đình ổn định,
mối tình cảm, tương hệ cũng cần được nuôi dưỡng liên
tục; thỉnh thoảng sắm quà tặng cho người vợ, đấy là
cách tỏ bày tình thương yêu, quý mến và lòng trung thành
của người chồng. Ði đâu xa về mà người chồng có quà
dành cho người vợ thì người vợ sẽ yên tâm rằng người
chồng luôn luôn nghĩ đến mình và không để lòng yêu thương
người khác. Thế là tương giao đã thắm thiết trở nên càng
thắm thiết.
Áo mặc và đồ trang sức là món
quà rất phù hợp với mong chờ của phái nữ. Quà loại này
vừa nói lên tính thực tế trong việc sử dụng nó, vừa nói
lên tính tâm lý làm phát khởi niềm hoan hỷ và thiện cảm
nơi người nhận.
Ðáp lại, người vợ phải thương
yêu, kính trọng và trung thành với chồng. Ðây là đòi hỏi
tất yếu.
Trong khi người chồng bận rộn
với công việc xã hội, thì bổn phận người vợ là quản
lý giỏi các công việc và của cải làm ra của gia đình,
khéo điều hành và khéo đối xử; niềm nở đón tiếp những
người ở gia đình chồng với sự kính trọng; vui vẻ với
láng giềng. Người vợ không được ỷ lại vào sự săn sóc
yêu thương của chồng; lại không được ngoại tình, không
được sai khiến chồng như bà chủ, không được phung phí
tài sản. Nếu người vợ ngoại tình, sai khiến chồng và
phung phí tài sản thì sau khi chết sẽ đoạ địa ngục (Tăng
Chi III, phẩm Bảy Pháp). Người vợ cư xử với chồng trong
tư cách của người vợ, người yêu, người bạn, và có khi
như là vai trò của người mẹ, người chị hay người em gái
của chồng. Với các thái độ cư xử này, sau khi chết, người
vợ sẽ được hưởng phước báo sanh thiên.
Qua những lời dạy trên của Thế
Tôn (Trường Bộ IV, và Tăng Chi III), vợ chồng cư xử với
nhau hiện rõ trong ba vai trò: người chồng (hay vợ), người
yêu và là người bạn. Vai trò của người chồng (hay vợ)
như là vai trò của bổn phận; vai trò của người yêu là
vai trò tình cảm đặc biệt của đôi vợ chồng; vai trò người
bạn là vai trò nói lên tính bền bỉ và chia xẻ của tương
hệ của vợ chồng. Ba vai trò đó cần được thường xuyên
vận dụng hợp thời và hợp chỗ. Khi một người bị bệnh,
thì người kia đóng vai trò săn sóc của người cha (hay mẹ),
của anh, em (hay chị, em). Trong các công việc gia đình, xã
hội thì cần sự bàn bạc, hợp tác, chia xẻ; bấy giờ cặp
vợ chồng xuất hiện như là hai người bạn. Lúc yêu thương,
đấy là vai trò của người yêu. Vai trò này cần được duy
trì cho đến trọn đời, chứ không phải trong buổi đầu
gặp gỡ.
Về hạnh phúc gia đình trong đời
sống hiện tại, Thế Tôn dạy cả hai người cần thực hiện
bốn điều:
1. Làm việc giỏi, siêng
năng, quản lý giỏi, giàu nghị lực.
2. Bảo vệ tất cả của cải đã
được làm ra một cách hợp pháp.
3. Tiêu dùng đúng việc, đúng mức:
không phung phí, cũng không keo rít.
4. Giao du với bạn bè có tính khoan
dung, cởi mở, có tín, thí, giới và tuệ.
Hoặc thực hiện bốn điều này:
1. Tháo vác, làm ra nhiều
của cải.
2. Quân bình chi thu. Thu phải trội
hơn chi. Lợi tức làm ra cần được sử dụng 1/4 cho việc
chi tiêu hàng ngày, 1/4 cho bất thường chi, và 2/4 dùng vào
vốn để đầu tư.
3. Quân bình sức khỏe và tâm lý.
Cần làm việc, ăn uống và nghỉ ngơi có tiết độ. Không
nên buồn nản, cũng không nên để mình quá vui, quá bận rộn.
4. Giao du với bạn có tín, thí,
giới và tuệ.
Về hạnh phúc gia đình cho mai sau (cho
kiếp sau), Thế Tôn dạy cần thực hiện bốn điều:
1. Tín: Có lòng tin vào ngôi
Tam Bảo. Tin rằng Thế Tôn là bậc giác ngộ hoàn toàn. Tin
rằng Pháp đã được Thế Tôn khéo thuyết giảng có khả
năng đoạn trừ tham, sân, si, tất cả khổ đau. Tin rằng chúng
Tăng là đoàn thể hoà hợp, sống cao thượng trong Giới bổn
Ba-la-đề-mộc-xoa, đáng được tôn kính, cúng dường và học
hỏi.
2. Thí: Cần có lòng khoan dung và
thương người, giúp đỡ các người khác với các của cải
mình có; thường cứu giúp người nghèo và cúng dường chư
Tăng.
3. Giới: Cuộc sống cần có giới
hạnh; giữ gìn năm giới cấm một cách nghiêm chỉnh.
4. Tuệ: Hiểu biết khổ đau, con
đường đi ra khỏi khổ đau, và có chí cầu tu tập để giải
thoát khổ đau.
Thực hiện được các lời dạy trên
thì người Phật tử sẽ tìm thấy hạnh phúc tương đối
trong hiện tại và trong các đời sau. (Theo Tăng Chi II, phẩm
Bốn pháp).
Người Phật tử xây dựng một
nếp sống như vậy thì rất thiết thực và vừa với cấp
độ giá trị của con người, có thể tìm thấy hạnh phúc
rất là người và vừa có thể hướng về giải thoát cao
hơn.
4. Tương hệ
bạn bè:
Phương Bắc chỉ bạn bè. Mối tương
hệ này cũng cao cả, cần được tôn kính. Con người cần
đối xử nhân từ với nhau, nói năng từ ái, hòa nhã; phải
sống hòa hợp mà không gây gỗ, cãi vã; giúp ích cho nhau trong
những khi cần, và không bỏ nhau khí khó.
Tương giao như thế là mối tương
giao đầy tình người. Bạn bè cũng là một như cầu sống
của con người. Hẳn sống ai cũng cần có bạn, và bạn phải
là bạn tốt để đem lại an vui cho nhau. Tình bạn được
xây dựng tốt cũng là một thứ hạnh phúc của tương giao.
5. Tương hệ
giữa chủ và người cộng sự:
Phương Dưới chỉ liên hệ giữa
chủ và người cộng sự. Mối liên hệ này cũng cao quý, thiêng
liêng. Người chủ nhà (hay chủ cơ sở) có nhiều bổn phận
đối với các cộng sự: giao công việc vừa khả năng và
sức khỏe; trả tiền thù lao thích đáng; cung cấp các thuốc
men trị bệnh; và thỉnh thoảng an ủi, khích lệ và tưởng
thưởng hay tặng quà.
Ðáp lại, người cộng sự cần
phải làm việc cần mẫn, giỏi dắn, lương thiện, thành thực
và không xảo trá. Liên hệ này cũng thể hiện đầy tình
người, đầy tình tương thân tương ái, tạo nên một không
khí tương giao của cuộc sống rất nhẹ nhàng và an lạc.
Ai cũng có thể đón nhận một cảm giác rằng sống là để
hạnh phúc, xây dựng mà không phải là để làm việc, để
khổ đau cho dù có phải làm việc trọn ngày.
6. Tương giao
giữa các tu sĩ và cư sĩ:
Phương Trên là chỉ các tu sĩ và
mối tương giao giữa các tu sĩ và cư sĩ. Ðây là liên hệ
thiêng liêng, là liên hệ Phạm thiên, đáng tôn kính.
Các Phật tử thì săn sóc ủng hộ
các tu sĩ các nhu cầu vật chất tối thiểu (y áo, thuốc men,
giường chiếu và thực phẩm) và biểu lộ chân thành lòng
thương yêu, kính trọng. Các tu sĩ thường bị ràng buộc bởi
giới luật nên không nói rõ các Phật tử các nhu cầu trên.
Các Phật tử cần rõ điều này, đến gần các tu sĩ để
biết các vị đang cần gì để hộ trì. Hộ trì tu sĩ có
nghĩa là hộ trì Chánh pháp, mong muốn Chánh pháp được tồn
tại lâu dài giữa đời. Chánh pháp tồn tại lâu dài thì
cuộc đời được thêm phần an lạc. Hộ trì tu sĩ như thế
có nghĩa là đóng góp vào việc xây dựng an lạc cho cuộc
đời, cho chính tự thân người hộ trì.
Ðáp lại, người tu sĩ vốn là
vô sản, trọn ngày chỉ học Phật Pháp, khất thực và hành
Thiền định, chỉ có trao cho người cư sĩ tấm lòng từ mẫn,
lân mẫn, các hiểu biết về các pháp, và giới thiệu các
cư sĩ con đường chân chính đoạn khổ, xây dựng hạnh phúc
ở đời. Tương hệ này là đầy tình đạo và tình người.
Vị tu sĩ chỉ trao truyền kiến
thức và kinh nghiệm tu tập cho các Phật tử, cung cấp các
kiến thức, trao truyền năm giới, mười giới, bát quan trai
giới, và khích lệ các Phật tử giác tỉnh vô thường mà
phát khởi tinh tấn tu tập.
Thiếu lòng từ mẫn, thiếu kinh
nghiệm của học hỏi và tu tập Phật pháp thì dù có đầy
đủ ý thức trách nhiệm đối với cư sĩ, các tu sĩ cũng
không đóng được vai trò của mình, cũng không giữ được
thiên chức thiêng liêng cao cả của mình. Nhận sự hộ trì
của các tu sĩ là nhận lãnh trách nhiệm giáo dục của mình,
là chấp nhận mối tương giao rất hợp lý, đầy tình người
và tình đạo, như Thế Tôn đã dạy về mối tương hệ ấy.
Mối tương hệ đó như là sự trao
đổi hai chiều các nhu cầu của mỗi phía một cách công bằng
và có tính cách tự nguyện mà không ràng buộc nhau, không
gây thiệt thòi cho phía nào. Người tu sĩ không phải chỉ
giảng dạy Phật pháp và con đường tu tập, mà còn đảm
trách thêm việc giáo dục hướng dẫn về kinh tế, quản lý
gia đình và các tâm lý cá nhân, xã hội, những gì trực tiếp
ảnh hưởng đến hạnh phúc cá nhân, gia đình và xã hội.
Tóm lại, nhu cầu người cư sĩ
chờ đợi ở tu sĩ là nhu cầu giáo dục (theo nghĩa rộng),
và nhu cầu người tu sĩ chờ đợi ở cư sĩ là nhu cầu kinh
tế. Hai nhu cầy ấy bổ sung cho nhau trong một hòa điệu của
sự hưng thịnh của Phật giáo và sự an lạc, hạnh phúc,
phồn vinh của cuộc đời.
Sáu mối tương quan trên còn có
ý nghĩa rằng sống là tương quan tương duyên, rằng con người
là con người của tương giao xã hội, và xã hội là xã hội
của các cá nhân con người. Ðấy là mối tương hệ không
thể cắt xén: không thể sống mà chỉ biết có cá nhân, cũng
không thể sống mà cá nhân bị đánh mất hoàn toàn. Về giải
thoát, thì phải là vấn đề cá nhân; nhưng về hạnh phúc
tương đối ở đời thì phải là hạnh phúc của tương giao.
Lo cho hạnh phúc tương giao là vấn đề lo cho hạnh phúc của
tập thể, toàn thể. Khi dạy về hạnh phúc cá nhân, chính
Thế Tôn lại nói đến hạnh phúc của gia đình và tập thể.
Thiết lập tương giao tốt giữa
con người, đấy là một nghệ thuật sống. Nghệ thuật này
được xây dựng trên các yếu tính: kính trọng nhau, chấp
nhận nhau, thành thực với nhau, và thương yêu giúp đỡ lẫn
nhau vì hạnh phúc chung.
Nếu trước đây Thế Tôn đã cặn
kẽ dạy chàng thanh niên Singàla hướng về tôn kính, xây dựng
sáu mối tương giao kia, thì ngày nay người tu sĩ cũng cần
hỗ trợ cho các Phật tử tại gia công việc tương tự. Ðể
thể hiện tốt vai trò hướng dẫn, chỉ đạo của mình, vị
Tỷ-kheo cũng cần có kiến thức về tâm lý, về kinh tế,
xã hội. Ðời sống vị Tỷ-kheo, qua mối tương giao này, không
chỉ giới hạn trong khuôn viên nhà chùa, mà cần phải đi
vào sự quan tâm đến hạnh phúc của người đời với thái
độ dấn thân tích cực hơn.
Kinh nghiệm lịch sử, đặc biệt
là lịch sử Việt Nam, cho thấy thời đại nào mà có nhiều
tu sĩ Phật giáo chân chính hành đạo với kiến thức uyên
bác, dấn thân giúp đỡ xã hội thì Phật giáo hưng thịnh
và dân tộc cũng hưng thịnh, như đời Lý, Trần; thời đại
nào các vị Sư thu mình về trong khuôn viên nhà chùa, trong
tinh thần lánh thế, hay đi xa con đường thực hành Giới,
Ðịnh, Tuệ thì thời đại ấy Phật giáo suy vong, hay đi vào
suy vong, và dân tộc cũng không hùng cường, như cuối đời
Lý, cuối đời Trần và qua triều Lê, Nguyễn. Giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa
cần được hiểu một cách sáng tỏ là làm dậy sức sống
giải thoát trong mỗi người, đem lại an lạc cho mình và người,
chứ không phải để buộc chân người cứu thế, độ đời.
Người tu sĩ và người cư sĩ đều
cùng lúc có hai bổn phận chính yếu: một bổn phận đi vào
giải thoát và một bổn phận xây dựng hạnh phúc cho đời.
Xây dựng được mối tương giao thứ sáu tốt đẹp là làm
tròn hai bổn phận đó. Và ngược lại.
Sáu mối tương hệ trên có thể
được học đường ngày nay đem vào nền giáo dục nhân bản,
giáo dục con người rất người bên cạnh các kiến thức
chuyên môn.
(Xin xem tiếp đoạn kế)
(tiếp theo)
Ðối trị các
ảo giác, ảo tưởng...
Trong thời gian đầu tu tập Thiền
định, hành giả do công phu hành chưa điều hòa được thân,
hơi thở và tâm, thường phát sinh nhiều hiện tượng ảo
giác, ảo tưởng như: cảm thấy ngứa ngáy, nghe có kiến bò
trong mình, trên mặt, tưởng thân mình đang bị nghiêng (sự
thật thì không), cảm giác có vòng ánh sáng, người lâng nhẹ
muốn bay nổi lên, nghe ran ở ngực, thái dương, v.v...
Hành giả đừng băn khoăn đi tìm
biện pháp đối trị từng loại các ảo giác này. Cứ mặc
nhiên theo dõi hơi thở đều đặn, tập cho hơi thở điều
hòa và thân ngồi nhuyễn, hai đầu gối sát xuống sàn tọa,
chỉ ghi nhận có các hiện tượng ấy xảy ra mà không lo,
không sợ, không rộn ràng, không hân hoan; nhìn các hiện tượng
khơi lên như nhìn hơi thở vào ra. Nhiếp niệm vào hơi thở
và cố đi ra khỏi các tưởng mà khi trú niệm vào tưởng
này thì xảy ra các ảo giác ấy. Sau một thời gian tu tập
ổn định thân, hơi thở và tâm khá hơn thì các hiện tượng
ấy tự tiêu. Hành giả phải ý thức rõ ràng Thiền không
liên hệ gì đến các thứ ảo giác ấy. Khi mà hành giả tập
được khá tốt về ba phương diện nhiệt tâm tính cần, chánh
niệm tỉnh giác và rời khỏi các tham ưu, thì hành giả lập
tức chấm dứt được các ảo giác, ảo tưởng, loạn tưởng
ấy.
Có nhiều lúc hành giả nhận thấy
nước miếng ra nhiều ở trong miệng và thường bị ho ướt,
trường hợp này cũng đừng bận tâm, chỉ vì trạo cử bắt
đầu phát khởi khi hành giả đang nhiếp niệm. Hãy tinh cần
nhiếp niệm an tịnh trở lại đối tượng đang theo dõi thì
hiện tượng này sẽ lặn đi; tập nhiếp như vậy nhiều lần
thì hiện tượng ho ướt này cũng mất đi.
Các hiện tượng ảo giác trong khi
tu tập xảy đến khác nhau ở từng người, cũng có một số
hiện tượng giống nhau. Tất cả các hiện tượng ấn đều
có chung một phương cách đối trị hoàn toàn hữu hiệu, đó
chính là pháp môn niệm hơi thở vào hơi thở ra ấy. Thế
Tôn đã dạy pháp môn này để đối trị với mọi thứ vọng
niệm của hành giả, giúp hành giả đi vào chánh niệm tỉnh
giác và nhiếp phục tham ưu. Ðừng nghi ngờ gì nữa! Hành
giả hãy tiếp tục nhiệt tâm tu tập cho nhuần nhuyễn hơn,
mặt khác, quên đi các thứ ảo giác, thì hành giả sẽ đi
ra khỏi các hiện tượng ảo giác và các lệch lạc trong tu
tập không khó.
Một cách tổng quát, dù là trong
lúc ngồi Thiền, dù là trong mộng hay dù là trong khi làm việc,
lúc thức, hành giả hãy tu tập nhiếp niệm tỉnh giác trước
mọi chuyện xảy đến, và cả sau khi mọi chuyện xảy đến.
Lúc nào tâm lý của ta có mặt các Thiền chi (tầm, tứ, hỷ,
lạc và nhất tâm) thì ta đang ở Sơ thiền; lúc nào có mặt
hỷ, lạc, nhất tâm là ta trú Nhị thiền; lúc nào có mặt
lạc và nhất tâm là trú Tam thiền; lúc nào có mặt xả và
nhất tâm là trú Tứ thiền. Tâm không có mặt các Thiền chi
ấy là ta chưa vào định (các Thiền Vô sắc đều có mặt
xa và nhất tâm).
Ðối Tượng
Tu Tập Thiền Quán
Theo truyền thống tu tập của Nikàya
và A-hàm, có bốn mươi đối tượng tu tập Thiền quán:
- Mười đối tượng liên
hệ đến các vật có tướng trạng như: đất, nước, gió,
lửa, vật có màu xanh, vàng, đỏ, trắng, ánh sáng và không
gian.
- Mười đối tượng về xác chết
như: sình, biến sắc, rã, chảy nước, bị cắt đứt đoạn,
bị xé nát, bị bung rời từng mảnh, không còn nguyên hình
thể, đẫm máu, bị dòi rúc rỉa, thi hài chỉ còn xương.
- Mười đối tượng suy niệm như:
Phật, Pháp, Tăng, bố thí, giới, chư Thiên, Niết-bàn, chết,
thân, hơi thở vào ra.
- Bốn Thiền Vô sắc: Không vô biên
xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, và Phi tưởng phi
phi tưởng xứ.
- Bốn vô lượng tâm: Từ, bi, hỷ,
xả.
- Một đối tượng về tưởng (sannà):
Tưởng về khía cạnh nguy hiểm của bốn loại thức ăn: đoàn
thực, tư niệm thực, thức thực và Thiền duyệt thực.
- Một đối tượng thuộc phân tích
luận giải: Phân tích tứ đại, lục đại.
Bốn mươi đối tượng tu trên đây
dành cho sáu loại căn cơ khác nhau. Mỗi loại căn cơ thích
hợp với một số đối tượng riêng biệt. Sáu căn cơ khác
biệt của người tu là:
- Tham ái (ràga carita) - Si
(moha carita) - sân (dosa carita).
- Nặng về đức tin (saddhà carita).
- Nặng về biện giải (buddhi carita).
- Nặng tính phóng đãng (vitakka carita).
Mỗi căn tánh có thể kéo dài suốt
một đời người, cũng có thể kéo dài trong một giai đoạn.
Do theo dõi, quán sát tự thân, hành giả biết mình thuộc loại
căn tánh nào, và do đó chọn được đối tượng tu tập hữu
hiệu. Nguyên tắc chọn đối tượng quán tưởng là nguyên
tắc đối trị: nếu tánh thuộc sân thì đối tượng quán
là từ; nếu tánh tham sắc thì đối tượng quán là bất tịnh
tướng; nếu tánh thuộc si, tà kiến thì đối tượng quán
là quán Mười hai nhân duyên, v.v...
* Về mười đối tượng tu đầu
(địa, thủy, hỏa, phong...): căn bản của pháp quán mười
đối tượng này là giữ tâm an trú trên đối tượng, không
để cho vọng tưởng khởi động, không để buông lung trí
tuệ. Ví dụ như đối với yếu tố đất, hành giả quán
sát những gì trong cơ thể mình thuộc địa đại, và những
gì ở thế giới bên ngoài thuộc địa đại, biết rằng tất
cả những gì thuộc địa đại đều không phải là mình,
không phải của mình, không phải là tự ngã.
Sau khi nhìn như thật yếu tố đất
như thế, hành giả khởi niệm nhàm chán, không chấp thủ
nó, không đắm trước nó.
Tương tự đối với chín đối
tượng kia.
Nhìn các đối tượng trên như thế,
có nghĩa là không bao giờ hành giả nghĩ "tôi là", "tôi đã
là", hay "tôi sẽ là" (địa, thủy, hoả, phong, không, thức,
v.v...). Không nghĩ như thế là đi ra khỏi các vọng tưởng,
chấp thủ ngã. Ðấy là những gì mà kinh Kim Cang nói "Ưng
vô sở trú nhi sanh kỳ tâm", phương cách để hàng phục vọng
tưởng.
* Về Quán Các Tướng Bất Tịnh:
Việc quán tử thi cần đối mặt
với các xác chết ở nghĩa địa, như thời xưa ở Ấn Ðộ,
thì mới có kết quả tốt. Ngày nay đối tượng quán ấy
không còn phổ biến. Hành giả chỉ thỉnh thoảng tưởng đến
các tử thi để làm lắng xuống lòng tham ái sắc hầu để
đi vào Thiền định. Ðừng thường xuyên quán bất tịnh;
trường hợp quán thường xuyên này có thể bị phản tác
dụng, tâm lý hành giả có thể trở nên chán nản, tuyệt
vọng làm trở ngại sự phát triển nỗ lực ly tham.
* Về Các Ðối Tượng Suy Niệm
(ức niệm):
- Phật: Niệm về thập
hiệu Như Lai. Niệm về tự tánh giác ngộ.
- Pháp: Niệm về giáo pháp
Như Lai khéo thuyết giảng đưa người qua biển khổ. Niệm
về tự tánh sáng suốt.
- Tăng: Niệm về phẩm hạnh
của các bậc Thánh hữu học và vô học. Niệm về tự tánh
thanh tịnh.
- Giới: Suy nghĩ về phẩm
hạnh của mình, về sự kiểm soát sáu căn.
- Thí: Niệm về tánh khoan
hồng, bao dung của tự thân.
- Thiên: Niệm về những đức
tính đem lại kết quả sinh Thiên.
- Niết-bàn: Suy niệm về sự
chấm dứt khổ đau, về tham, sân, si diệt.
- Chết: Nghĩ đến cái chết,
rằng có thể đến với mình bất cứ lúc nào, để thấy
vô thường mà tấn tu. Nghĩ đến cái chết để lòng bình
tĩnh trước cuộc vô thường của đời sống.
- Thân: Tương tự như niệm
về thân đã được trình bày ở Tứ niệm xứ.
- Niệm hơi thở vào hơi thở
ra: Như đã được trình bày.
- Bốn Thiền Vô sắc: Chỉ
đi vào bốn đối tượng vô sắc khi nào hành giả đã vào
Tứ thiền Sắc giới. Nhờ có tâm nhu nhuyến của Tứ thiền
thì việc dẫn tâm vào bốn Vô sắc mới hiệu quả.
- Tứ vô lượng tâm: Chỉ
có hai kinh ở Nikàya (Trung Bộ Kinh) đề cập đến việc tu
Thiền quán Tứ vô lượng tâm để vượt từ Vô sở hữu
xứ định băng qua Phi tưởng phi phi tưởng, đi thẳng vào
Diệt thọ tưởng định. Tương Ưng Bộ Kinh V thì ghép việc
tu tập Tứ vô lượng tâm với việc tu tập Thất giác chi.
- Tưởng: Tưởng đến các
nguy hiểm, nguy hại của bốn loại thức ăn (đoàn thực, tứ
niệm thực, thức thực và Thiền duyệt thực) để ly tham.
- Phân tích luận giải: Phân
tích Năm uẩn, Phân tích Sáu giới, Phân tích Mười hai nhân
duyên... để thấy rõ giả tướng mà buông xả sự chấp trước
thế giới sinh diệt...
Ðối với các đối tượng tu Thiền
quán kể trên, có người chủ trương rằng chỉ hành Thiền
quán sau khi đắc Tứ thiền Sắc giới; cũng có người cho
rằng trước khi vào Tứ thiền, chỉ nên hành Thiền chỉ.
Quan niệm như thế là giới hạn, hẹp hòi và có phần lệch
lạc.
Từ Tứ thiền thì pháp Quán có
tác dụng lớn hơn, nhờ Thiền định ấy mà tuệ giác của
hành giả có thể sinh khởi đủ để đốt cháy các lậu hoặc
tham, sân và vô minh. Nhưng thực ra, trước khi vào Sơ thiền,
hành giả vẫn nên hành Thiền quán để đối trị dục, tham;
từ Sơ thiền đến Tam thiền, Thiền quán giúp hành giả giác
tỉnh mạnh để đi ra khỏi Sơ, Nhị và Tam thiền để vào
Tứ thiền. Ở Vô sở hữu xứ, Thiền quán Tứ vô lượng
tâm giúp hành giả vượt qua khỏi Phi tưởng phi phi tưởng,
đi thẳng vào Diệt thọ tưởng định.
Ðiểm khó nhất trong tu tập Thiền
quán là chọn đối tượng tu thích hợp với căn cơ của hành
giả, và đề khởi Thiền quán đúng lúc để vận dụng thiện
xảo cùng với Thiền chi.
Những Sự Hỗ
Trợ Cho Việc Ngồi Thiền, Hành Thiền
Ðể cho việc ngồi Thiền, hành
Thiền có kết quả tốt, hành giả cần lưu ý đến một số
công việc phải làm để hỗ trợ cho việc hành Thiền chỉ
và Thiền quán:
- Hành giả nên xếp đặt
cuộc sống thế nào để giữ mình trong một nếp sống điều
hòa, điều độ ăn uống, làm việc, nghỉ ngơi và tu tập.
Nếp sống này giữ hành giả trong một tâm lý quân bình, thuận
lợi cho việc tu tập phát triển tâm.
- Các việc lễ sám, các niệm khởi
sám giúp đưa tâm lý hành giả trở về chỗ an tịnh, xóa
đi nhiều dao động của thân và tâm. Khi tâm an tịnh, ít dao
động, ít bị ngăn che thì hành giả dễ dàng đi vào các canh
giới Thiền hơn.
- Kham nhẫn là đức tính giúp hành
giả nhiếp niệm về an tịnh dễ dàng, loại bỏ được nhiều
sân tâm, đóng góp hữu ích cho việc tựu thành công phu Thiền
định, xả niệm.
- Khiêm tốn là một đức tính khác
để loại bỏ các chấp ngã, kiêu mạn, giúp hành giả dễ
đi vào chánh niệm tỉnh giác, loại bỏ được nhiều yếu
tố gây ra trạo cử, vô minh.
- Làm các công việc vừa kể là
đã xả bỏ một phần lớn các động tâm, ác tâm, sân tâm
và hại tâm.
Khi vào ngồi Thiền, hành giả tiếp
tục xả dần các vọng động của thân và tâm. Ðộng lắng
có nghĩa là tịnh sinh, định sinh. Ví như bóng tối tan, có
nghĩa là ánh sáng hiện. Không thể có công phu nào để làm
sinh định cả. Tất cả công phu chỉ là việc làm lắng vọng
động, làm chìm vọng động, tan vọng động.
Về thân, hành giả ngồi kiết-già
với lưng thẳng đứng, để niệm trên một đối tượng trước
mặt và giữ thân thế nào ở trong tư thế nghỉ ngơi, các
cơ hoàn toàn được buông thả. Nếu các cơ căng thì thân
nhiệt sẽ nóng lên làm mất sự an tịnh của thân hành, gây
động hơi thở và động niệm.
Về tâm, chú chánh niệm tỉnh giác
vốn đã là công phu xả các vọng niệm. Hành giả tiếp tục
hành xả tích cực các sân tâm, dục tâm theo các phương thức
đã trình bày ở phần trước.
Ngoài các thời ngồi Thiền, hành
giả thực hành về tưởng Vô ngã, Vô thường và Khổ đau
của các pháp, đặc biệt là Vô thường. Hành giả hãy đặt
niềm tin mãnh liệt vào đối tượng Thiền quán này. Ðây
là đối tượng siêu tuyệt nhất của Thiền quán. Thế Tôn
dạy: "Thấy rõ Ba pháp ấn này (có nghĩa là thấy duyên
sinh) là thấy pháp; thấy pháp là thấy Phật".
Các kinh Nikàya, A-hàm và các kinh
Ðại thừa (Bắc tạng) thường nhấn mạnh đến Ba pháp ấn
này. Ðiển hình là kinh Kim Cương. Sau khi chỉ rõ thật nghĩa
Bát-nhã của các pháp, kinh đã kết thúc bằng bài kệ dạy
hành giả quán sát cái tướng Vô thường, không thật của
các pháp như là phương pháp hành trì để thể nhập thật
lý Bát-nhã ấy. Kệ dạy:
"Nhứt thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn, bào ảnh,
Như lộ, diệc như điển,
Ưng tác như thị quán".
(Hết thảy các pháp hữu vi, là
như mộng huyễn, đấy là nghĩa không thật. Như bọt nước,
như sương mai, như ánh chớp, đấy là nghĩa Vô thường).
Nhờ thấy rõ tướng Vô thường, tướng
Khổ đau, hành giả ly tham. Từ ly tham giải thoát phát khởi,
và tuệ giải thoát sinh. Chính tuệ giác giải thoát này thấy
rõ thật tướng Bát-nhã. Hành giả không thể đi theo ngỏ
đường nào khác. Không thể vào thật tướng mà không từ
bỏ tham ái, chấp thủ và vô minh.
Thấy trực tiếp Vô thường, hay
thắng tri Vô thường không phải là việc dễ dàng. Nếu sinh
vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì vì si mê nặng nề
mà không thấy được, và vì quá khổ đau mà không tu được.
Nếu sinh về các cung trời, thì vì quá sung sướng mà khó
hành tinh tấn, nhẫn nhục; vì thọ mạng quá dài và ít bị
đổi thay nên khó thấy Vô thường, Vì thế, khi Thế Tôn nói
"Vô thường" thì chư Thiên nghe mà rung động tâm thức. Kinh
Tương Ưng II đã diễn đạt tuệ giác chứng ngộ Vô thường
của Thế Tôn như là một đại thần lực, đại uy lực của
Thế Tôn làm chấn động chư Thiên. Ðược làm người chưa
hẳn dễ giác ngộ Vô thường, vì tham ái và sân hận thường
che khuất tâm tánh. Cả đến khi nghe nói đến Vô thường,
nghe giảng giải Vô thường, con người chưa dễ gì khởi tín
tâm, mà còn sinh lắm nghi ngờ về hiệu quả đưa đến giải
thoát của nó: người ta tưởng tượng ra chân lý, hoặc là
hoàn toàn ở ngoài cuộc đời, hoặc chân lý phải được
đạt đến bằng sự chịu đựng hành khổ của một nghìn
thứ khổ đau,v.v...
Ðược sanh làm người đã vô cùng
khó, mà được gặp Phật pháp lại càng khó khăn hơn. Gặp
Pháp mà hiểu đúng nghĩa Vô ngã, Vô thường, Khổ đau còn
khó hơn nữa. Hiểu được nghĩa ấy của Pháp để phát khởi
lòng tin mà tu tập đúng Pháp thì quả thật vô vàn khó khăn.
Ðấy là chưa nói đến việc chứng ngộ Pháp. Nếu hành giả
quan niệm đi đến chân lý là khó khăn thì đấy là nghĩa
khó khăn cần được hiểu đúng đắn: khó khăn cần vượt
qua, và không phải là không thể vượt qua.
Tư duy về "Vô thường" ấy là hành
Thiền quán trong đời sống hàng ngày. Ðấy là hành Thiền
định trong bốn oai nghi.
Nếu ngoài thời gian ngồi Thiền
mà hành giả không hành Thiền quán Vô thường ấy thì kết
quả hành Thiền sẽ đến muộn.
Ngay sau khi Thế Tôn thị tịch, Tôn
giả Anurudha, người đứng ra lo việc hỏa thiêu Xá-lợi, đã
nói lên lời cảm thán này, đáng cho chúng ta trầm tư:
"Không phải thở ra vào,
Chính tâm trú chánh định,
Không tham ái tịch tịnh
Tu sĩ hướng diệt độ..." (Kinh
Ðại Niết-bàn).
(Bấy giờ Tôn giả đã đắc Tam minh).
Con đường hành Thiền định chính
thống là pháp tu Tứ niệm xứ, hay niệm hơi thở vào hơi
thở ra. Mỗi bước đi tu tập là mỗi bước đi ra khỏi một
số phiền não, và đi vào các thoải mái của thân và của
tâm. Hành giả đi từng bước đi tin tưởng vào hạnh phúc,
để lại sau lưng những thất vọng, mộng mị và bóng tối
của cuộc đời. Ðấy là con đường đi vào chân lý tự do
và hạnh phúc, niềm khát vọng muôn thuở của con người.
Lịch sử của nhân loại là lịch sử đi tìm kiếm chân lý,
tự do và hạnh phúc đó. Nhưng nhân loại hầu như vẫn mãi
ở trên con đường, và mơ màng trong sự tìm kiếm của chính
mình. Ôn Như Hầu, nhà thơ của thế kỷ 18 của thi đàn Việt
Nam, đã cảm thán:
"Mờ mờ nhân ảnh như
người đi đêm" (Cung Oán Ngâm Khúc).
Còn sự tìm kiếm là còn lý do để
phát triển và tồn tại của các tư tưởng hệ. Chừng nào
nhân loại tỉnh ngộ, quay về với Tứ niệm xứ, chừng đó
nhân loại sẽ ngưng ngay vai trò của triết lý, khép lại cánh
cửa tư tưởng hệ. Tại đây, nếu giả định rằng con người
chấp nhận Thiền định là con đường dẫn đến hạnh phúc
và chân lý, thì sẽ liền xóa đi mọi cuộc bút chiến, mọi
tranh chấp tư tưởng, mọi cuộc chiến đẫm máu và mọi sự
phung phí quá nhiều tài sản và nhân mạng, và sẽ mở ra được
một phương trời mới đầy sáng sủa, đầy nhân tính và
đầy an lạc cho đời.
Tứ niệm xứ là niềm tin lớn nhất
của thế kỷ hai mươi và của những thế kỷ tiếp theo, trong
việc xây dựng con người và xã hội rất người.
Thiền Chỉ
Và Thiền Quán
Trong Thiền định Phật giáo có
hai hình thức mà hành giả vận dụng khi tu tập Thiền gọi
là Thiền chỉ và Thiền quán.
"Thiền chỉ" dịch từ chữ Samatha
(Pàli), và "Thiền quán" dịch từ chữ Vipassana (Pàli).
Nếu ta đừng suy nghĩ hay tư duy,
để tâm theo dõi hơi thở vào ra, hay để tâm dừng trú trên
một đối tượng, với chánh niệm tỉnh giác, thì đây gọi
là Thiền chỉ.
Nếu ta theo dõi một đối tượng
và phân tích hay tư duy trên đối tượng ấy, dù đối tượng
ấy là hơi thở hay Năm triền cái, Năm uẩn, Mười hai giới,
Bốn đại, Thất giác chi hay Tứ Thánh đế, thì đấy là ta
đang hành Thiền quán. Ðặc biệt là ta cần để tư duy hoạt
động trên cơ sở sự thật Duyên khởi (hay Duyên sinh, hoặc
Khổ, Vô thường - Vô ngã). Nếu ta tư duy mênh mang, không phân
tích sự vật theo Duyên sinh, thì đấy chỉ là tư duy mà không
phải là Thiền quán. Thiền quán luôn luôn bao hàm ý nghĩa
của Chánh tư duy.
Có nhiều người chủ trương ròng
tu Thiền chỉ hay ròng tu Thiền quán. Chủ trương như vậy
là đi vào hai thái cực, có tính cố chấp, và không đem lại
kết quả thật tốt cho việc tu tập Thiền định.
Trong Ba mươi bảy phẩm trợ đạo,
Tứ niệm xứ, Tứ Như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác
chi và Bát Thánh đạo đều có đủ cả Thiền chỉ và Thiền
quán.
Về Tứ niệm xứ: niệm thân, niệm
thọ, niệm tâm và niệm pháp - đặc biệt là về niệm - đều
có công phu Chỉ và Quán. Nói thật đúng về Tứ niệm xứ
thì phải nói rằng đây là pháp môn rất quân bình về Chỉ
và Quán.
Theo dõi các đối tượng và trú
tâm trên các đối tượng là thuộc Thiền chỉ. Quán tánh
sanh diệt của thân, thọ, tâm và pháp là thuộc về Thiền
quán.
(Ở đây, "Quán" có nghĩa
là "Nhìn", nhìn thấy rõ tướng Duyên khởi của các hiện
hữu, nhìn có tác ý phân tích hiện hữu theo sự thật Duyên
khởi, hay là phân tích các hiện hữu theo sự thật Duyên khởi.)
Về Tứ như ý túc, tâm định là thuộc
Thiền chỉ, tư duy định là thuộc Thiền quán.
Niệm trong Ngũ căn, Ngũ lực và
Niệm trong Thất giác chi chính là Tứ niệm xứ, do đó có
đủ Chỉ và Quán. Chánh tư duy của Bát Thánh đạo là thuộc
Thiền quán.
Chánh niệm chính là Tứ niệm xứ,
có đủ Chỉ và Quán.
Thông thường, Chỉ thì thuộc tỉnh,
Quán thuộc động. Pháp tu tập Thiền định của Phật giáo
là một quá trình chuyển đổi tâm lý dựa trên nguyên tắc
đối trị. Mỗi khi tâm lý thụ động, hôn trầm thì hành
giả cần vận dụng tầm và tứ tâm sở, hay vận dụng Thiền
quán để đối trị. Khi tâm lý quá năng động hay trạo cử,
thì hành giả vận dụng Thiền chỉ để đối trị. Việc
đối trị giữ ở mức "trung đạo", vừa phải. Nếu Thiền
quán quá mức thì ngay sau khi dẹp hôn trầm xong, hành giả
sẽ rơi vào trạo cử; nếu Thiền chỉ quá mức thì ngay sau
khi đối trị trạo cử xong, hành giả sẽ rơi vào hôn trầm.
Biết tỉnh giác tu tập Chỉ và Quán song chiếu, đúng thời
và đúng độ là thiện xảo.
Bắt đầu vào ngồi Thiền, nếu
hành giả thấy tâm lý nghiêng về năng động thì nên hành
Thiền chỉ trước, nếu tâm lý nghiêng về thụ động thì
hành Thiền quán trước. Nếu tâm lý quân bình thì có thể
đề khởi Chỉ hoặc Quán. Lúc nào hành giả nghi ngờ, không
thấy rõ tâm mình nặng về động hay tĩnh, thì cứ hành niệm
hơi thở vào, hơi thở ra.
Khi dạy về tu tập Thất giác chi,
Thế Tôn dạy tu Trạch pháp giác chi, Tinh tấn giác chi và Hỷ
giác chi khi tâm lý thụ động; tu Khinh an giác chi, Ðịnh giác
chi và Xả giác chi khi tâm lý năng động. Niệm giác chi thì
tu tập thích ứng với mọi trạng thái tâm lý của hành giả.
Khi hành giả vào được Tứ thiền,
bấy giờ việc hành Thiền quán được vận dụng thường
xuyên không phải để đối trị tâm lý thụ động, mà là
để trừ tham ái và chấp thủ, trừ các kiết sử, lậu hoặc.
Khi lậu hoặc đã được hoàn toàn
đoạn trừ, thì việc hành trì Thiền không phải là để đối
trị các tâm lý năng động hay trạo cử, mà là để được
hiện tại lạc trú, để được thân khỏe và mắt khỏe.
Cũng có một số căn tính của hành
giả thích hợp với Thiền chỉ hơn là Thiền quán, một số
thích hợp với Thiền quán hơn Thiền chỉ. Trong trường hợp
này, hành giả sẽ nặng về Chỉ, hoặc Quán. Tuy nhiên, cả
hai Chỉ và Quán luôn luôn cần được phối hợp trong việc
tu tập Thiền định để dễ đi sâu vào Thiền định hơn.
Giản dị nhất, hành giả chỉ cần nhớ rằng, Quán đề khởi
lúc tỉnh, và Chỉ đề khởi lúc động. Chỉ có chánh niệm
tỉnh giác loại bỏ tham ưu là cần có mặt thường xuyên.
Thiền Cảnh
và Thiền Tâm.
Nỗ lực đầu tiên của người
tu tập Thiền định là chuyển đổi Năm triền cái thành Năm
Thiền tâm (tầm, tứ, hỷ, lạc, và nhất tâm - xả).
Khi trạo cử mất thì lạc sinh,
và ngược lại. Khi dục lặn thì xả và nhất tâm sinh, và
ngược lại. Khi sân dịu thì hỷ sinh và ngược lại. Khi nghi
triền cái mất thì Tứ tâm sở khởi và ngược lại. Tầm,
tứ, hỷ, lạc và nhất tâm là năm Thiền tâm (hay Thiền chi)
của Sơ thiền. Khi hành giả nhiếp tầm và tứ chỉ còn lại
hỷ, lạc, và nhất tâm, thì liền vào cảnh giới của Nhị
thiền. Khi hỷ Thiền chi được nhiếp thì hành giả vào Tam
thiền với sự có mặt của lạc, và nhất tâm. Từ bỏ lạc,
hành giả chỉ còn lại Thiền xả và nhất tâm thì bấy giờ
hành giả vào cảnh giới Tứ thiền.
Thiền chi xả và nhất tâm tiếp
tục làm cơ sở để tu tập Tứ không định (bốn Thiền của
Vô sắc giới). Tại đây nếu hành giả vận dụng tâm nhuần
nhuyễn của Tứ thiền vào tưởng: "Không gian là vô biên",
thì sẽ đắc Không vô biên xứ; nếu tiếp tục rời khỏi
tưởng không gian vô biên mà vào tưởng "Thức là vô biên"
thì hành giả sẽ vào Thức vô biên xứ; nếu tiếp tục rời
khỏi tưởng thức là vô biên và trú niệm vào tưởng "Không
có gì cả" (hay không có gì để có), thì hành giả sẽ đắc
Vô sở hữu xứ; nếu rời Vô sở hữu xứ tưởng, trú niệm
vào tưởng "Không có tưởng cũng không phải không có tưởng"
thì hành giả sẽ đắc Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Nếu tại Phi tương phi phi tưởng
xứ, hành giả đủ tỉnh giác thấy rõ nguy hiểm của cõi
Thiền này mà nhiếp niệm đi ra khỏi Phi tưởng phi phi tưởng,
thì hành giả sẽ vào được Diệt thọ tưởng định. Ðây
là cảnh giới Thiền định cao nhất. Tại đây, các lậu hoặc
tham, sân, si được hoàn toàn đoạn trừ, và chánh trí giải
thoát phát khởi biết rằng đã giải thoát.
Ðặc biệt Nikàya và A-hàm thường
chỉ dạy hành giả tu tập đến Tứ thiền Sắc giới và từ
đó tu tập Thiền quán để đoạn tận lậu hoặc. Thỉnh thoảng
trong hai tạng Kinh này đề cập việc lẫn tránh vào Phi tưởng
phi phi tưởng xứ định, bởi vì, ở cảnh giới Thiền này,
ý thức hoạt động yếu ớt nên việc giác tỉnh và vận
dụng Thiền quán khó thực hiện. Tương tự như thế đối
với cảnh giới Vô tưởng của Tứ thiền, hành giả cần
thường xuyên cảnh giác để tránh rơi vào hai cảnh giới
Thiền ấy. Tại Vô sở hữu xứ định, Nikàya và A-hàm dạy
hành Tứ vô lượng tâm (từ, bi, hỷ, xả) để băng ngang qua
Phi tưởng phi phi tưởng mà vào Diệt thọ tưởng định.
Khi hành giả chưa tận trừ các
lậu hoặc thì việc trú tâm vào các cảnh Thiền sắc giới
và Vô sắc giới của hành giả biểu hiện khác nhau. Nhưng,
sau khi đã đoạn trừ hết lậu hoặc thì với xả niệm và
nhất tâm, dù trú ở cảnh giới Thiền nào, hành giả đều
là thật trú vào Không tánh. (Kinh Tiểu Không, Trung Bộ Kinh
III).
Việc vào một cảnh giới Thiền,
an trú trong cảnh giới Thiền ấy và đi ra khỏi cảnh giới
Thiền ấy biểu hiện công phu thiện xảo khác nhau giữa các
hành giả. Có người thiện xảo vào Thiền mà không thiện
xảo trú và ra Thiền; có người thiện xảo trú Thiền mà
không thiện xảo vào và ra Thiền; có người thiện xảo cả
ba việc vào, trú và ra. Tất cả đòi hỏi công phu thực tập
Thiền định mà không thể có sẵn ở Giới hay Tuệ. (Theo
Tương Ưng III, Tương Ưng Thiền),
Cũng vì có sự kiện thiện xảo
về Thiền định và thiện xảo về trí tuệ đoạn trừ các
lậu hoặc khác nhau, nên hàng đệ tử của Thế Tôn chứng
đắc nhiều cấp độ khác nhau: có những vị có tâm giải
thoát mạnh mà nhẹ về tuệ giải thoát; có những vị mạnh
về tuệ giải thoát mà nhẹ về tâm giải thoát.
Với những vị đệ tử tu tập
nhuần nhuyễn về định thì có tâm giải thoát cao và chứng
đắc được Thiên nhĩ thông, Tha tâm thông và Thần túc thông.
Ðây là kết quả của Thiền chỉ. Với những vị nương vào
các định đã chứng đắc tu tập nhuần nhuyễn Thiền quán
thì sẽ đưa đến chứng đắc Túc mệnh thông, Thiên nhãn
thông và Lậu tận thông. Ba thông này còn được gọi là Ba
minh.
Cũng có nhiều vị đệ tử do nhờ
có công phu tu tập Thiền định từ các kiếp trước, nay chỉ
tu Thiền quán mà đoạn trừ hết các lậu hoặc và đắc A-la-hán
quả. Quả vị A-la-hán này gọi là A-la-hán khô
(hay Khô đầu A-la-hán). Các vị này thì nhẹ về định. Tuy
nhiên, nếu cần, các vị chỉ cần nhiếp tâm trong thời gian
ngắn thì sẽ dễ dàng chứng đắc các cảnh giới Thiền muốn
chứng đắc.
* * *
Con Ðường
Thiền Ðịnh Mà Thế Tôn Ði Qua
(Tăng Chi III-A, 411-419).
Trước khi giác ngộ, Thế Tôn nhận
thấy con đường xuất ly là an tịnh, nhưng lại không cảm
thấy phấn khởi. Khi Thế Tôn suy nghĩ đến cùng về sự nguy
hiểm của các dục thì sự hứng khởi của tâm xuất ly khởi
sinh, và tâm của Thế Tôn thấy "Ðây là an tịnh". Sau đó
Thế Tôn an trú Sơ thiền. Trong khi trú Sơ thiền thì các tưởng
đi đôi với dục vẫn có mặt; bấy giờ các tưởng này trở
thành bệnh hoạn, nó cũng gây ra đau khổ.
Thế Tôn liền ngưng tầm và tứ,
và chứng Nhị thiền; nhưng Thế Tôn lại không thấy hứng
khởi và giải thoát. Sau đó, Thế Tôn suy nghĩ đến cùng về
sự nguy hiểm của tầm và tứ thì Thế Tôn liền thấy hứng
khởi, giải thoát, biết "Ðây là an tịnh". Nhưng khi trú Nhị
thiền thì các tưởng cùng đi với tầm, tứ vẫn có mặt;
bấy giờ chính các tưởng này là bệnh.
Thế Tôn liền rời khỏi hỷ và
chứng đắc Tam thiền. Thoạt đầu Thế Tôn không cảm thấy
hứng khởi và giải thoát của Tam thiền, Ngài liền suy tư
đến cùng sự nguy hiểm của hỷ thì Thế Tôn liền cảm thấy
hứng khởi, an tịnh và giải thoát, biết rằng "Ðây là an
tịnh". Sau một thời gian trú Tam thiền, các tưởng đi đôi
với hỷ vẫn xuất hiện; bấy giờ chính các tưởng này là
bệnh.
Thế Tôn liền từ bỏ hỷ, từ
bỏ lạc và chứng đắc Thiền thứ tư. Buổi đầu trú ở
Thiền này, Thế Tôn không cảm thấy hứng khởi, an trú hay
giải thoát. Sau đó, Thế Tôn tư duy đến sung mãn về sự
nguy hiểm của lạc thì Ngài cảm thấy hứng khởi, an tịnh
và giải thoát của xả niệm trú (Tứ thiền), biết rằng
"Ðây là an tịnh". Trong khi an trú Tư thiền, xả lạc, xả
khổ, thì các tưởng đi đôi với xả lạc vẫn hiện hành;
bấy giờ đối với Ngài, các tưởng này là bệnh.
Rồi Thế Tôn đi ra khỏi các Sắc
tưởng, chấm dứt hoàn toàn các Sắc tưởng, không tác ý
đến các tưởng sai biệt. Bấy giờ Thế Tôn chứng đắc
"Không vô biên xứ định". Vào lúc đầu của sự chứng đắc
Thiền cảnh này, Thế Tôn không cảm thấy hứng khởi, và
không có giải thoát đối với Thiền này, Thế Tôn liền suy
nghĩ đến nguy hiểm của các Sắc, thấy nguy hiểm này đến
cùng độ thì Thế Tôn liền cảm thấy hứng khởi, an tịnh
và giải thoát đối với Không vô biên xứ, biết rằng "Ðây
là an tịnh". Sau một thời gian an trú trong Không vô biên xứ
định, các tưởng cùng đi với các Sắc vẫn còn hiện hữu.
Thế Tôn thấy đây là chứng bệnh,như là khổ đau phát khởi
ở người đang sung sướng.
Thế Tôn lại từ bỏ hoàn toàn
Không vô biên xứ định và chứng đắc "Thức vô biên xứ
định" (Thức là vô biên). Vào lúc ban đầu của sự chứng
đắc này, Thế Tôn không cảm thấy hứng khởi, không cảm
thấy an tịnh và giải thoát đối với Thức vô biên xứ.
Ngài bèn tư duy đến sự nguy hiểm của Không vô biên xứ
định, thấy được sự sung mãn về sự nguy hiểm này, Ngài
liền thấy hứng khởi, an tịnh và giải thoát đối với Thức
vô biên xứ định. Sau một thời gian trú trong Thức vô biên
xứ định, các tưởng về Không vô biên xứ vẫn hiện hành,
đây là chứng bệnh đối với Ngài, như là nỗi khổ đau
khởi lên giữa lúc đang sung sướng.
Thế Tôn lại từ bỏ hoàn toàn
Thức vô biên xứ định và đạt được "Vô sở hữu xứ
định" (biết rằng không có gì cả). Vào lúc ban đầu của
sự chứng đắc thiền này, Ngài không cảm thấy phấn khởi,
an tịnh và giải thoát, Ngài bèn tư duy đến sự nguy hiểm
của Thức vô biên xứ định cho đến khi thấy sung mãn sự
nguy hiểm của cảnh giới Thiền đó, Ngài mới cảm thấy
hứng khởi, an tịnh và giải thoát đối với Vô sở hữu
xứ. Sau một thời gian an trú trong Thiền Vô sở hữu xứ này,
các tưởng về Thức vô biên xứ vẫn hiện hành như là hiện
hành của khổ đau đối với người đang sung sướng. Với
Ngài, đây là một chứng bệnh cần được loại bỏ.
Thế Tôn lại ra đi, ra đi nữa.
Ngài từ bỏ hoàn toàn, chấm dứt hoàn toàn tưởng Vô sở
hữu, và chứng đắc "Phi tưởng phi phi tưởng xứ định".
Dù biết rằng "Ðây là an tịnh", nhưng lúc đầu Ngài vẫn
không thấy hứng khởi, không an tịnh hay không giải thoát
đối với Thiền này. Ngài chuyển qua tư duy về sự nguy hiểm
của Vô sở hữu cho đến khi thấy sung mãn sự nguy hiểm này
thì sự cảm nhận hứng khởi, an tịnh và giải thoát đối
với "Phi tưởng phi phi tưởng định" đến với Ngài. Sau một
thời gian trú Phi tưởng phi phi tưởng, các tưởng có mặt
của Vô sở hữu lại khởi lên như là khổ đau khởi lên
với người đang sung sướng. Ðối với Ngài, đây là một
chứng bệnh cần được đoạn trừ.
Rồi Thế Tôn lại ra đi nữa, từ
bỏ hoàn toàn Phi tưởng phi phi tưởng định và chứng đắc
"Diệt thọ tưởng định". Dù có biết rằng "Ðây là an tịnh",
trong buổi đầu chứng đắc Thiền này, Thế Tôn vẫn không
có hứng khởi, an trú và giải thoát đối với Thiền ấy.
Ngài bèn suy nghĩ đến nguy hiểm của Phi tưởng phi phi tưởng
xứ định, cho đến khi thấy rõ sự sung mãn của sự nguy
hiểm ấy, Ngài thưởng thức được lợi ích của Diệt thọ
tưởng định với tâm hứng khởi, an trú và giải thoát. Thế
Tôn thấy "Ðây là an tịnh, thật an tịnh". Sau một thời gian
an trú ở Diệt thọ tưởng định, với trí tuệ Thế Tôn
thấy rằng, tất cả các lậu hoặc đều đi đến tận diệt.
Sau khi thuận thứ và nghịch thứ
chứng đắc, an trú và xuất khởi nhuần nhuyễn chín cảnh
giới Thiền trên, Thế Tôn mới tuyên bố Ngài đã chứng đắc
"Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác".
Trên đây là lộ trình tu chứng
chín cảnh giới định của Thế Tôn. Ðấy là lộ trình liên
tục ra đi, liên tục từ bỏ những gì chứng đắc, liên tục
giác tỉnh, biết rằng các Thiền định (từ Sơ thiền đến
Phi tưởng phi phi tưởng định) là các pháp do nhân duyên sinh,
là hữu vi, là vô thường, là khổ đau, liên tục khởi lên
ưu tâm tìm vào giải thoát chân thực. Ưu tâm ở đây lại
là cần thiết để không bị dính mắc, đắm trước vào các
Thiền cảnh, là sức mạnh của sự từ bỏ hết thảy các
pháp bị tác thành. Ưu tâm ở đây chính là sự có mặt của
tuệ giác, của khả năng thấy sự vật như thật.
Chúng ta có thể rút ra từ kinh nghiệm
của Thế Tôn một bài học vô vàn quý giá rằng: nếu hành
giả luôn luôn giữ chánh niệm tỉnh giác trên ý nghĩa như
thật của các pháp hữu vi: Vô ngã, Vô thường, Khổ đau thì
hành giả sẽ vượt nhanh qua được các cảnh giới Thiền
định, dễ dàng xuất khởi khỏi các Thiền cảnh để hướng
về "Diệt thọ tưởng định", nơi mà các lậu hoặc sẽ hoàn
toàn được đoạn trừ, các cảm thọ lạc, khổ và các tưởng
đi đến các cảm thọ lạc, khổ sẽ hoàn toàn được tịnh
chỉ. Chúng ta cũng có thể rút ra một bài học kỳ diệu khác
rằng: tinh hoa của việc tu tập Thiền nằm ở chỗ an trú
trong chánh niệm về Khổ, Vô thường, Vô ngã của các pháp
để xả ly tham ái và chấp thủ. Sự giải thoát khổ đau
có mặt ngay trong sự xả ly đó.
Sự từ bỏ đến ngay sau khi thấy
rõ sự nguy hiểm của những gì đang ràng buộc chúng ta, đang
trói buộc tâm thức chúng ta; sự chứng đắc một cảnh giới
Thiền định cao hơn lại đến ngay sau sự từ bỏ cảnh giới
đang là; sự an trú cảnh giới chứng đắc là kết quả của
sự thấy sâu sắc cái nguy hiểm của cảnh giới vừa đi ra.
Cứ thế, lộ trình tu tập giải thoát là sự trải qua của
những quá trình thấy rõ khía cạnh vô thường, nguy hiểm
và khổ đau của các pháp, và sự từ bỏ những gì được
làm ra, được tác thành. Hành giả không mệt mỏi, đi những
bước đi đầy giác tỉnh, hứng khởi, an tịnh và giải thoát.
Con đường phải đi này là con đường Thiền định chính
thống của Phật giáo. Khác đi là đường đi của ngoại đạo.
Từ bỏ, hay buông xả trong Thiền
định của Phật giáo đồng nghĩa với sự an trú trong chánh
niệm tỉnh giác và đồng nghĩa với an tịnh, giải thoát của
Thiền định. Nói khác đi, buông xả là buông xả tham ái và
chấp trước mọi pháp được tác thành, được làm ra.
Nếu có ai chủ trương giữ tâm
Không (hay Không tâm) khi tu tập Thiền định của đạo Phật,
thì phải hiểu tâm Không chính là chánh niệm tỉnh giác rời
xa mọi tham ái, chấp trước ở đời. Hành giả hành
Thiền định Phật giáo thì không có mơ màng chờ đợi gì
ở cách thở hay thế ngồi hoặc bất cứ một kỹ thuật tu
tập nào, ngoại trừ việc hàng phục chính vọng tâm của
mình. Chúng ta phải trở về con đường Thiền định
của Thế Tôn. Chân lý và con đường về chân lý chỉ được
sáng ở dưới cội Bồ-đề, mà không phải là những nơi
nào khác. Tại đó, chân lý sẽ rực sáng một lần và sẽ
rực sáng mãi mãi. Ðấy là nơi quy hướng của những ai tự
nhận mình là Phật tử, dù đang ở phương hướng nào trên
trái đất. Tại đấy, rực sáng hào quang của Duyên khởi
và Tứ niệm xứ, và hào quang đó vẫn còn tỏa sáng ở mốc
điểm phân ranh giữa sanh tử và giải thoát, giữa con đường
chánh và con đường tà.
Hướng về Duyên khởi và Tứ niệm
xứ là thắp sáng giáo lý của Thế Tôn giữa cuộc đời này.
Chúng ta hãy lắng nghe lời dạy sau đây của Thế Tôn về
nhơn duyên của diệu pháp không được tồn tại lâu dài,
hay được tồn tại lâu dài:
"Này Bà-la-môn, do Bốn
niệm xứ không được tu tập, không được làm cho sung mãn
sau khi Như Lai nhập diệt, nên diệu pháp không tồn tại lâu
dài. Do Bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn,này
Bà-la-môn, sau khi Như Lai nhập diệt, diệu pháp được tồn
tại lâu dài". (Tương Ưng V, tr. 183).
Cho đến đây, chúng ta có một kết
luận rõ ràng là vấn đề chủ yếu của một giáo hội Tăng-già
hưng thịnh và Phật giáo hưng thịnh hay tồn tại, chính là
vấn đề học hỏi Phật pháp và tu tập Giới, Ðịnh, Tuệ
của các Phật tử xuất gia cũng như tại gia. Các vấn đề
khác chỉ là thứ yếu. Thời đại của một xã hội Phật
giáo hưng thịnh như dưới thời vua A-dục (Asoka) phải là
thời đại mà quần chúng Phật tử học hỏi nhiều về giáo
lý và thực hành giáo lý, đặc biệt là Thiền định (Tứ
niệm xứ).
Cho đến khi nào mà các Thiền viện
được phát triển Thiền định mạnh hơn các lãnh vực gọi
là "tín ngưỡng" của Phật giáo, thì cho đến khi ấy, chúng
ta mới có niềm tin lạc quan rằng Phật giáo hưng thịnh, hay
đang đi vào hưng thịnh.
Phải chăng cần chuyển công phu
thực hành Tứ niệm xứ thành buổi công phu sáng hay chiều
của hàng xuất gia, và thành công phu thay thời công phu Tịnh
độ của hàng Phật tử tại gia để diệu pháp tồn tại
lâu dài hơn ở đời?
Ðó là câu hỏi mà người Phật
tử cần trầm tư ở cuối phần tìm hiểu giáo lý Tứ niệm
xứ./.