Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

4. Đặc điểm của Phật giáo

18 Tháng Hai 201100:00(Xem: 14385)
4. Đặc điểm của Phật giáo

PHẬT HỌC CĂN BẢN
Thích Giải Hiền

4. Đặc điểm của Phật giáo

4.1. Hàm dung nhưng có lớp lang

Phật giáo lấy giáo pháp làm phương tiện cứu tế, không phải lấy người hay thần làm pháp cứu tế. Đối với hết thảy các pháp ở thế gian Phật pháp không hề biên chấp nên là pháp vô ngã, từ bitrí tuệ. Do vậy hết thảy các thiện pháp ở đời đều là Phật pháp. Bất luận là kỷ thuật, tri thức, triết học hay tôn giáo nếu có lợi ích cho cuộc sống, nhân tâmxã hội Phật giáo đều không bài xích nên Phật giáo hàm dung hết thảy mọi thiện phápthế gian.

Phật giáo phân thiện pháp thành năm tầng thứ là Nhân, Thiên, Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ-tát. Người là chỉ cho việc hoàn mỹ đầy đủ nhân cách, làm tròn trách nhiệm và nghĩa vụ. Đây là điều kiện cơ bản nhất, nếu trên điều kiện căn bản này biết tu hành hạnh bố thí lợi tha nữa thì tốt đẹp vô cùng. Làm thiện chính là “Cùng tắc độc thiện kỳ thân, Đạt tắc kiêm thiện thiên hạ„.Độc thiện là thiện pháp của Người, Kiêm thiện là thiện pháp của Trời. Đẩy đủ tiêu chuẩn trời người lại biết tu tập trí tuệthiền định thời sẽ đạt quả vị giải thoát Niết Bàn. Đó là tầng thứ của Thanh VănDuyên Giác. Lấy thiện pháp của trời người làm nền tảng rồi phát Bồ-đề-tâm nổ lực tin tấn không ngừng vì lợi ích của tha nhân, không màng đáp trả chỉ vì chúng sinhcống hiếnphục vụ là tầng bậc của địa vị Bồ-tát tự giác giác tha. Trên nền tảng của bốn tầng thứ trên nếu đạt được cảnh giới không, vô tướng, vô nguyện thời chính là Phật.

4.2. Chính tín mà không mê tín

Đặc trưng của mê tínsùng bái một cách mê muội, không hợp tình hợp lý, như thật nhưng là giả, chính tà không phân. 

4.2.1. Sùng bái một cách mê muội

Chính là người ta vậy nên mình cũng vậy, nghe người nào đó có thần thông thì liền tin theo mà không hề suy sét rõ ràng. Như người xưa có nói: ”Tìm lưu manh hơn cảnh sát“ lưu manh có lúc cũng giúp được ta điều gì đó nhưng di chứng khó lường.

4.2.2. Không hợp tình hợp lý

Là không hợp với định luật nhân quả như tin tưởng rằng: ”Lúa không nước trời không lớn, người không hoành tài không giàu“. Nên làm những nghề đầu cơ tích trữ, cho vay nặng lãi kiếm tiền không phù hợp với lý nhân quả thời chắc rằng hậu quả sẽ khó lường, có thể sẽ ”thân bại danh liệt“, ”tán gia bại sản“, ”cửa mất nhà tan“. Lại như tin vào bùa chú, đồng cốt cầu phát tài đánh đề trúng số nhưng của đến mau thì cũng đi mau. Hoặc tham ô, móc ngoặc, hối lộ, hà hiếp lấy của dân, của nước đều là không hợp tình, hợp lý. Bất luận là dựa vào sức mạnh của thần linh, sức mạnh của ma quỷ, ô dù của con người đều không phù hợp với lý nhân quả và là trạng thái của mê tín.

4.2.3. Như thật mà giả

Là chỉ tất cả mọi tôn giáo đều có đạo lý riêng, như dựa vào sức mạnh của thần linh, hay sức mạnh của sự gia trì, chỉ cần tin theo, làm theo thời sẽ linh sẽ nghiệm có thể thành Phật, có thể lập tức khai ngộ hoặc sẽ trừ được bệnh, tiêu được tai. Đưa ra những lý luận hoang đường, như thật như giả, không hề nói rõ nguyên nhân. Những tôn giáo như thế cần thận trọng chớ vội tin vì hậu hoạn khó lường.

4.2.4. Tà chính bất phân

Là sự mê tín do quỷ thần tạo ra, quỷ thần thường dựa đồng cốt để khuyên người, dụ người mới nghe như thiện nhưng khi đã tin theo rồi thì: ”thuận chi giả xương, nghịch chi giả vong” vừa uy hiếp vừa dẫn dụ để phải tin theo vì lo sợ và phải thuần phục mãi nếu rời bỏ thì bản thân, gia đình hay sự nghiệp sẽ gặp chướng nạn. Tiêu chuẩn thị phi của họ không giống với đời thường, quan điểm nhân quả của họ thời mê mờ không rõ.

Chính tín của Phật giáo là lấy Phật, Pháp, Tăng làm đối tượng để tín ngưỡng. Tin Phật không có nghĩa là sùng bái xác thân của Phật mà là tôn kính trí tuệ, từ biân đứcĐức Phật đã dành cho chúng ta. Tin vào giáo pháp của Phật đà nếu chúng ta thực hành theo thì sẽ đạt đến mục tiêu tự lợi lợi tha. Khi Đức Thế Tôn nhập diệt chúng đệ tử bạch hỏi: ”Sau khi Phật diệt độ chúng con lấy ai làm Thầy“ Phật dạy: “Chúng đệ tử lấy pháp làm Thầy, lấy giới làm Thầy“ . Dựa vào chính pháp của Phật đã dạy xây dựng tín tâm, như pháp tu hành thì đạt được giải thoát chứng Bồ-đề. Tin vào giáo đoàn Tăng Ni đệ tử Phật được truyền thừa từ đời này sang đời khác. Khi thọ giới thì Tăng đại diện cho Tam Bảo trụ trì Phật pháp. Lấy Tam Bảo làm đối tượng tín ngưỡng không có nghĩa là thần thánh hoá các vị xuất gia. Các vị xuất gia tuy chưa thành Phật, chưa chứng ngộ nhưng lấy pháp làm Thầy, sống trong giới luật, cần tu định tuệ và hướng dẫn quần chúng tu tập nên hình tướng xuất gia của quý vị là biểu trưng cho sự thanh tịnh ly dục của Phật giáo chúng ta.

Chính tín Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo thiếu một không được. Nếu chỉ tin Phật mà không tin pháp, không tin Tăng thì chẳng khác gì tin quỷ thần. Nếu chỉ tin pháp, không tin Phật, không tin Tăng thì khác gì đãy đựng sách. Nếu chỉ tin Tăng, không tin Phật, không tin pháp thì khác chi việc nhận cha mẹ nuôi. Phải tin đủ Phật Pháp Tăng Tam Bảo thì mới là chính tín Phật giáo.

4.3. Thần thánh mà không thần bí

Thần bí là cao vời vợi không với tới được nhưng vẫn cảm nhận được uy lực của vị ấy có thể khống chế mình ở mọi nơi nhưng không biết rõ được là họ đang ở đâu. Tuỳ lúc mà họ có thể cho mình sự giúp đỡ nhưng không biết vì lý do gì, có thể trừng phạt mình bất kỳ lúc nào nhưng tìm chẳng thấy họ đâu. Thường biểu hiện những năng lực phi thường nhưng chưa chắc là có ích cho chúng ta. Tất cả những biểu hiện này có thể là do con người dùng kỷ xảo tạo ra, cũng có thể là do sự phản ứng không bình thường của tâm lý chúng ta, cũng có cái do linh lực của quỷ thần.

Phật Pháp Tăng Tam BảoThần Thánh, vì Phật là người có trí tuệ, lòng từ bi và nhân cách cứu cánh viên mãn. Pháp là phương phápđạo lý để đoạn trừ phiền não chứng Bồ-đề. Tăng là những bậc tu hành trên cầu vô thượng chính giác, dưới hoá độ vô biên chúng sinh. Tam Bảo trong Đạo Phật không phải bất kỳ tôn giáo nào cũng có thể có được nên thần thánh không thể nghỉ bàn nhưng không phải là thần bí của quỷ thần. Người theo đạo Phật phải phát tâm vô thượng Bồ-đề học Phật, tu pháp, hành Bồ-tát đạo, dùng Phật pháp giúp chúng sinh đoạn trừ việc ác đã sinh, ngăn ngừa việc ác chưa sinh là khiến cho chúng sinh sớm lìa khổ. Lại làm cho chúng sinh tăng trưởng những điều thiện đã phát sinh, phát triển những điều thiện chưa sinh, đó chính là khiến cho chúng sinh sớm được an lạc. Không cầu an lạc cho bản thân chỉ mong cho chúng sinh được an lạc là tâm Bồ-đề vô ngã, không cần phải dùng hình tướng của Bồ-tát hay hoá Phật để dạy bảo chúng sinh mà dùng hình tướng chúng sinh đặng khuyến hoá họ. Thần Thánh mà không thần bí là vậy.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12574)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14152)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10896)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10574)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11242)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12045)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13207)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13690)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33722)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11379)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12981)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13105)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11679)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17943)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11487)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11902)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11561)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 19028)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12597)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11390)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13194)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15834)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11876)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11741)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12840)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12688)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 14010)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13027)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12990)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13341)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12825)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12745)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11801)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11775)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12398)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12434)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19892)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 12012)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12046)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16942)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12722)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15128)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16175)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12944)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12293)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11970)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11975)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13213)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16561)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13277)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12560)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11895)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19914)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11201)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11319)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10454)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11139)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 11015)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10071)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11787)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant