Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

6. Phương pháp tu tập cơ bản

18 Tháng Hai 201100:00(Xem: 13058)
6. Phương pháp tu tập cơ bản

PHẬT HỌC CĂN BẢN
Thích Giải Hiền

6. Phương pháp tu tập cơ bản

Công năng hoá độ nhân gian của Phật gíao là lấy Phật pháp để tịnh hoá nhân gian, nâng cao nhân phẩm làm cho chúng sinh sống đời này an lạc, đời sau cũng an lạc. Làm sao để đạt được đều này. Muốn như vậy chỉ có một phương thức duy nhấtthực hành tu tập theo giáo lýĐức Phật đã dạy.

Phương pháp tu tập căn bản không ngoài phước nghiệp, định nghiệptuệ nghiệp.

Phước nghiệpbố thí, trì giới. Định nghiệpthiền định. Tuệ nghiệp là chỉ cho trí tuệ. Công đức của việc tu tập bố thí, trì giới sẽ được phước báo nhân thiên rồi từ đó có thể thành tựu Phật quả. Nên Phật là người đã viên mãn cả phước lẫn trí. Công đức của việc tu tập thiền định làm cho đời sống hiện tại của chúng ta có được cuộc sống mạnh khoẻ về sinh lý và thăng bằng trong tâm lý, đời sau sinh vào cõi trời Thiền Thiên, Phạm Thiên tiến đến thành tựu Phật quả. Cảnh giới thiền định của Phật là cao nhất nên Chư Phật có công lực „thường trụ tại định, vô hữu bất định thời“. Có được thâm định đại định thì mới có được đại từ biđại trí tuệ. Công đức tu tập trí tuệ làm cho cuộc sống thực tại biết sống thiểu dục tri túc, ít phiền não lìa khổ được giải thoát. Cuối cùng dùng đại trí thâm tuệ độ vô lượng chúng sinh.

6.1. Tu bố thí như thế nào

Con người vì muốn bảo đảm cuộc sống và giữ cho sinh mạng được an toàn nên luôn có quan niệm cùng thói quen để dành tích trữ. Phương pháp để dành có hai là hữu hạn và vô hạn. Hữu hạn thì đem gởi vào ngân hàng còn vô hạn là đem tiền tài gởi vào trong xã hội. Hữu hạn để dành là nhằm bảo đảm cho cuộc sống của cá nhângia đình. Còn vô hạn để dànhbảo đảm cho cuộc sống của toàn xã hội. Cá nhân luôn gắn chặt với tập thể nên cả hai loại để dành này đều có lợi ích cho bản thân. Để dành về mặt thời gian cũng có hai cách là để dành cho đời này và để dành cho cuộc sống dài lâu ở tương lai. Để dành cho đời này là nhằm cho cuộc sống hiện tại của chúng ta, còn để dành dài lâu là nhằm cho cuộc sống nhiều đời ở tương lai. Gởi tiền ở ngân hàng, hay làm việc phúc lợi cho xã hội chúng ta có thể nhìn thấy được nên nó thuộc về sự để dành cho lợi ích của cuộc sống hiện tại. Hoằng dương Phật pháp, hộ trì Tam Bảo, dùng Phật pháp để cứu giúp nhân tâm là sự để dành vô tận, vì một truyền mười, mười truyền trăm, cứ vậy nhân lên đưa ánh đạo vào trong cuộc đời, làm lợi ích cho hiện tại và cho tương lai nhiều đời sau nữa. Nên chỉ cần Phật pháp truyền đến đâu và chừng nào Phật pháp còn lưu bố thì công đức cũng theo đó được lưu giữ nên đó là sự để dành vĩnh hằng nhất. Chúng ta phải nổ lực để dành „chất cát thành tháp“, „nước chảy đá mòn“, „tích thiểu thành đa“. Mỗi ngày một chút dùng vật lực, trí lực, thể lựctâm lực không ngừng tu tập công đức bố thí. Bố thí vì cuộc sống trước mắt, lại càng bố thí vì cuộc sống tương lai, công đức bố thí rất dễ tu tập tuỳ sức, tuỳ tâm. Bố thí giúp người nghèo, người bệnh công đức đã lớn. Hộ trì Phật pháp, bồi dưỡng Tăng tài hoằng dương Phật pháp công đức càng lớn hơn nhiều.

6.2. Tu trì giới như thế nào

Mục đích của trì giớisửa sai thành tốt. Sửa sai là không tạo các nghiệp ác nên đạt được quả ly khổ. Xây dựng cái tốt là nổ lực làm các nghiệp thiện nên đạt được quả hạnh phúc. Nếu cầu lìa khổ được vui mà không dốc sức để sửa sai thành tốt thì không hợp với quy luật nhân quả.

Phật giáo dạy người giữ giới nội dung có hai tầng thứ một là tự lợi, tự bảo như ngũ giới hai là làm lợi lạc chúng sinh như tứ chính cần.

Không sát sinh chủ yếu là không giết người.

Không trộm cắp là không lấy vật phi pháp không nhận của phi nghĩa.

Không tà dâm chủ yếu là không làm mất trật tự xã hội, không hợp luân lý, không phá hoại gia phong, không phung phí sức khoẻ.

Không vọng ngữ chủ yếu là không dùng lời nói để làm hại kẻ khác.

Không uống rượu gồm cả chất gây nghiện vì sẽ đánh mất năng lực tự chế của bản thân dẫn đến việc phá giới phạm tội.

Bốn loại tinh tấntứ chính cần khuyến hoá người bỏ các việc ác, làm các việc lành. „Chư ác mạt tác, chúng thiện phụng hành“. Chấm dứt các đều ác đã làm, ngăn ngừa các đều ác chưa làm, tăng trưởng các điều thiện đã có, phát sinh những điều thiện chưa sinh. Nổ lực không giải đãi thực hiện bốn pháp tinh tấn này. Không làm các điều ác, ngăn trừ các điều ác chưa sinh là bạt khổ cho chúng sinh. Tăng trưởng các điều thiện đã làm, phát khởi những điều thiện chưa sinh là đem hạnh phúc ban vui cho chúng sinh. Bạt khổ ban vui là dùng đại bi tâm hành Bồ-tát-hạnh, lấy bố thí để cảm hoá rồi hướng dẫn chúng sinh tu tập tứ chính cần.

6.3. Tu thiền định như thế nào

Ý nghĩa của thiền định là tâm vô nhị niệm. Khi mới bắt đầu cần có phương pháp. Phương pháp sẽ giúp tâm niệm từ trạng thái tán loạn đi đến trạng thái tập trung, từ tập trung đi đến trạng thái thống nhất, đạt được trạng thái thống nhất tứcđạt được định. Nhưng trạng thái thống nhất cũng có nhiều tầng thứ khác nhau : từ thân tâm thống nhất đến nội tâmngoại cảnh thống nhất, tiến hơn là niệm trước niệm sau thống nhất. Muốn đạt đến chỗ niệm trước và niệm sau thống nhất cần phải trải qua quá trình niệm trước và niệm sau nối nhau như mắt xích, một niệm gắn một niệm, niệm niệm đồng nhất niệm rồi sau đó mới đến chỗ triệt tiêu khoảng cách giữa niệm trước và niệm sau chỉ còn lại sự tồn tại của nhất niệm. Lúc đó tức là: „chỉ ư nhất niệm“ tên gọi là định. Nếu đạt đến chỗ nhất niệm cũng không còn tức là tức định tức huệ.

Khi mới tu thiền có thể có nhiều phương pháp, lễ bái, tụng kinh, niệm Phật, trì chú, kinh hành... đều nhằm mục đích an tâm, thanh tâmtịnh tâm. tất cả phương pháp tu tập để làm cho thân tâm thăng bằng đều là công hiệu của định. Nếu không có bậc thiền sư chỉ dạy thời có thể dựa vào những phương pháp trên để tu tập thiền định vì đều đúng với giáo lý Phật nhưng đây là phương pháp tán tâm tu định.

Nếu gặp được bậc Thầy có kinh nghiệm thiền định lại có chính tri, chính kiến của Phật pháp thì phải theo để tu học phương pháp chuyên tâm tu định đó là pháp thiền quán, pháp chỉ quán hay gọi là pháp tham thiền.

Phương pháp thiền quán không thể lìa ba nguyên tắc là tư thế điều thân, điều tức hơi thở và điều tâm chuyên chú. Yêu cầu căn bản là thả lỏng cơ bắp của thân thể đến thần kinh. Tư thế chính xác là nguyên tắc đoan chính nhẹ nhàng trong cả bốn tư thế đi, đứng, nằm, ngồi. Hít thở chính xác trên nguyên tắc giữ nhịp thở theo tốc độ bình thường. Chuyên chú chính xác là giữ nguyên tắc làm đúng phương pháp không để ý đến việc đạt được điều gì hay không. Nếu móng tâm mong muốn mau đạt được điều gì thì rất dễ đi lạc vào ma cảnh. Cần phảitâm lý chuẩn bị là sẽ „ gặp Phật chém Phật, gặp ma chém ma” thì mới an toàn. Ý nghĩa của „gặp Phật chém Phật, gặp ma chém ma” là bất luận có được cảm giác vui hay cảnh tượng lo sợ đều phải xem đó là huyễn cảnh huyễn giác. Nếu không khi gặp ác cảnh sẽ thối tâm, thậm chí còn huỷ báng Tam Bảo vì cho rằng tu tập mà không được quả báo tốt. Còn nếu gặp thiện cảnh thì sinh tâm kiêu mạn cho rằng đã được thần thông chứng được Thánh quả thành Phật rồi. Thật đáng thương thay cho tâm niệm sai lạc này.

6.4. Lễ báitụng niệm

Lễ bái liên quan đến chấp tay và cách lễ như thế nào cho đúng phương pháp. Vì sao lễ bái? người mới vào đạo có hữu cầu lễ báihữu tướng lễ bái. Cầu bình an, cầu trí huệ, cầu hạnh phúc là tâm thái bình thường. Hữu tướng lễ bái tức là có đối tượng, có mục đích trước Phật, Bồ tát Thánh tượng hay kinh điển mỗi ngày đúng giờ, đủ số lễ lạy, cầu tiêu nghiệp chướng, trừ phiền não. Tu tập lâu ngày tự sẽ hiểu rằng vô cầu, vô tướng mới là mục tiêu cứu cánh nên mỗi ngày lễ lạy như việc bình thường.

Đọc tụng kinh Phật phải xem thời gian, các bộ kinh thường đọc tụngTâm kinh, Phổ Môn Phẩm, kinh A Di Đà, kinh Kim Cang, kinh Dược Sư, kinh Địa Tạng, kinh Pháp Hoa, kinh Hoa Nghiêm. Tụng kinhthể không cần chuông mõ hoặc dùng chuông mõ. Tốt nhất là nên chuyên nhất tụng một bộ kinh nhất địnhphát tâm trong khoảng thời gian nào đó đọc tụng bao nhiêu biến, không nên nay đọc kinh này, mai đọc kinh khác, khi tụng kinh cần đọc rõ âm từng chữ mà chưa cần phải hiểu rõ nghĩa của từng chữ trong kinh. Chỉ khi xem kinh mới cần hiễu rõ nghĩa. Ngoài những kinh thường tụng trên nếu có khả năng có thể xem thêm những kinh luận khác như : kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ, kinh Lăng Nghiêm, kinh Viên Giác, kinh Thắng Man, kinh Duy Ma, kinh Lăng Già, kinh Giải Thâm Mật, kinh Đại Bát Nhã, kinh Tạp A Hàm, kinh Tăng Nhất A Hàm, kinh Trung A Hàm, kinh Trường A Hàm, luận Đại Thừa Khởi Tín, luận Bảo Tính, luận Câu Xá, luận Du Già Sư Địa, Trung luận, luận Đại Trí Độ, Lục Tổ Đàn Kinh

6.5. Niệm Phậttrì chú

Niệm Phậttrì chú vốn là một trong những phương pháp tu định. Sau khi Tịnh Độ tôngMật tông trở thành những tông phái độc lập mới có sự tách biệt nếu đứng trên lập trường chỉnh thể của Phật giáo mà nhìn thì cả ba hổ tương với nhau. Niệm Phật là chỉ chung cho niệm tất cả danh hiệu của các đức Phật, chư vị Bồ Tát chứ không phải chỉ riêng cho niệm Phật A Di Đà thôi. Niệm Phật có hai cách là tán tâm niệm Phậtchuyên tâm niệm Phật. Tán tâm niệm Phật là bất cứ ở đâu, bất kỳ lúc nào cũng có thể niệm, niệm ra tiếng hoặc niệm thầm trong tâm, thậm chí vừa nói chuyện vừa vẫn có thể niệm Phật. Chuyên tâm niệm tức là có thời khoá nhất định, bằng các phương cách như liên tục niệm, cao giọng niệm hoặc tự thinh kỳ niệm. Ấn Quang Đại Sư khuyên nên dùng phương thức “số số niệm ” chứ không phải là “ký số niệm ”. Ký số niệm tức là dùng tràng hạt để tính số niệm Phật. Số số niệm là niệm từ một đến mười xong lại tính lại từ một. Nếu được như thế sẽ dễ đạt đến chuyên tâm hơn. Nếu muốn niệm Phật đạt đến nhất tâm bất loạn phải dùng phương pháp chuyên tâm niệm thì mới đạt được.

Nhiều người cho rằng hể trì chú tức là tu mật pháp, thật ra không phải như vậy vì mật pháp chính quy là phải do Thượng Sư truyền trao cho, phải có pháp tu đúng nghi quỷ, còn trì chú thông thường thì cũng giống như trì danh niệm Phật vậy. Pháp trì chú là miệng đọc, tai nghe, tâm tư duy, thân khẩu ý tam nghiệp tương ưng thì trì chú mới có lực được, đó cũng chính là một dạng của định. Nếu tán tâm trì chú thì cũng có công đứccảm ứng, còn trì chú gì là tuỳ nhân duyên của mỗi người. Các chú thường trì tụng là chú Đại Bi, chú Quan Âm, chú Chuẩn Đề, chú Kiết tường, chú Dược Sư, chú Địa Tạng, chú Vãng Sinh, chú Lăng Nghiêm. Có thể dùng cách tính số biến chú đã trì, cũng có thể dùng cách tính thời gian trì chú.

6.6. Tu trí tuệ như thế nào

Trong các kinh điển cả Bắc lẫn Nam Tông có sự khác biệt khi nói về trí tuệ. Trí có thế gian tríxuất thế gian trí. Trí thức cùng sự thông minh tài trí của thế gian đều lấy ngã làm trung tâm bất kể là tiểu ngã của cá nhân hay ngã lớn của tập thể đều không thể thoát khỏi phiền não ngã chấp nên gọi là thế gian hữu lậu trí. Chỉ có những vận hành của tâm lý hay tinh thần vượt khỏi trung tâm tự ngã mới là xuất thế gian vô lậu trí.

Khai ngộ là sự hiển hiện công năng của vô lậu trí. Khi khai ngộ thì đoạn trừ phiền não của bản thân, rời chấp trước. Sau khi khai ngộ thì thí pháp vũ, tế khổ nạn của chúng sinh. Tự độ, độ người lại tự trí, tự giác, vô ngã cũng vô chúng sinh. Tuệ có văn, tư, tu tam tuệ.

Văn tuệdựa vào việc thính pháp nghe kinh, duyệt đọc kinh điển để hiểu rõ nguyên tắc tu tậpnghĩa lý trong Phật pháp.

Tư tuệdựa vào tuệ giải những điều đã nghe đã học, như pháp tu hành, một mặt vẫn y kinh giáo, mặt khác từ trong quá trình tu tậpđạt được sự thể nghiệm.

• Tu tuệ là tiến sâu hơn một bước nữa từ nền tảng tư tuệ tuy không y kinh điển mà đại dụng vẫn hiện tiền, lại vẫn không tương phản với kinh giáo.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31350)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26233)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27543)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27937)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26734)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31251)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20287)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22974)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30087)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21599)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20289)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22693)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20792)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30354)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28812)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34765)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44251)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35546)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22568)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21390)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20710)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24783)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37940)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19084)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19356)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21853)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20897)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29538)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35177)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28843)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32626)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26240)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28950)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43175)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34985)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43967)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37930)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21346)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43042)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49039)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39874)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53805)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36840)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40834)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49744)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47338)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27760)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27041)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27246)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24083)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20869)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34333)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22496)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25140)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25870)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22974)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22481)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21770)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23335)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21193)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant