Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương VII: Chư Môn Phân Biệt

01 Tháng Mười 201000:00(Xem: 12182)
Chương VII: Chư Môn Phân Biệt


Chương VII: Chư Môn Phân Biệt

Trong sáu chương ở trên, chúng tôi đã khảo sát qua về mọi phương diện từ bản chất đến các yếu tố thành lập vạn hữu. Và cái kết quả của phối hợp các yếu tố đó chính là cái vũ trụ cụ thể này mà, trong thiên sau đây, sẽ là đề chúng tôi bàn đến. Nhưng trước khi đề cập vấn đề đó, vẫn còn có điểm liên quan đến yếu tố luận cần phải được thảo luận qua. Đó tức là phương pháp luận cứu của A-tỳ-đạt-ma được mệnh danh là “Phân biệt” hoặc là “Chư-môn-phân-biệt”.

Trong phương pháp luận cứu của A-tỳ-đạt-ma tuy có nhiều đặc trưng, nhưng cái đặc trưng nổi bậc nhất chính là ở cái gọi là “Chư môn phân biêt” này, và nếu xa lìa chư môn phân biệt thì có thể nói A-tỳ-đạt-ma sẽ mất ý nghĩa độc lập. Theo ý nghĩa ấy, Phật Âm đã nói về đặc chất của A-tỳ-đạt-ma như thế này:

“Trong Kinh, ngũ uẩn chỉ được thuyết minh một cách đại khái chứ không đi sâu vào chi tiết, còn A-tỳ-đạt-ma thì vì phân biệt kinh, phân biêt luận, phân biệt vấn đáp, nên ngũ uẩn đã được thuyết minh một cách đầy đủ”.

Cũng theo ý nghĩa ấy, Long Thụ trong Trí Độ luận, đã nói: “A-tỳ-đạt-ma là gì? – Là đối vấn mà đáp, hoàn toànhình thức liên quan đến “Chư-môn-phân-biệt”.

Trí-độ-luận quyển 2 nói: Như nói về ngũ giới thì: Cái nào có sắc? Cái nào vô sắc? Cái nào có thể thấy? Cái nào không thể thấy? cái nào hữu lậu? Cái nào vô lậu? Cái nào hữu vi? Cái nào vô vi? Cái nào hữu báo? Cái nào vô báo? Cái nào thiện? Cái nào bất thiện? Cái nào hữu chứng? Cái nào vô chứng? Như thế gọi là A-tỳ-đàm.

“Lại nữa, thất sử là: dục-nhiễm-sử, sân-huệ-sử, hữu-ái-sử, kiêu-mạn-sử, vô-minh-sử, kiến sử, nghi sử. Vậy trong thất sử đó, cái nào là dục giới hệ? Cái nào là sắc giới hệ? Cái nào là vô sắc giới hệ? Cái nào kiến đế đoạn? Cái nào tư duy đoạn? Cái nào kiến khổ đoạn? cái nào kiến tập đoạn? Cái nào kiến tận đoạn? Cái nào là biến sử? Cái nào là bất biến sử?”.

“Thập trí là: pháp trí, tỉ trí, thế trí, tha-tâm-trí, khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, tận trí, vô sinh trí. Vậy trong mười tri này, cái nào là hữu lậu? Cái nào vô lậu? Cái nào hữu vi? Cái nào vô vi? Cái nào hữu lậu duyên? Cái nào vô lậu duyên? Cái nào hữu vi duyên? Cái nào vô vi duyên? Cái nào dục giới duyên? Cái nào sắc giới duyên? Cái nào vô sắc giới duyên? Cái nào duyên không hệ lụi? Cái nào làm trở ngại trong việc tu đạo? Cái nào giải thoát trong việc tu đạo? Khi chứng tứ quả thì cái nào được? Cái nào mất? Tóm lại, phân biệt tất cả pháp như thế cũng gọi là A-tỳ-đàm” (Trí Độ luận quyển 2, Đại chính, 25, trang 70, thượng).

Nhưng có bao nhiêu loại tiêu chuẩn. về vấn đề này, trong các luận thư không có nhất định. Theo chỗ tôi biết, thi trong tỳ-bà-băng-già thuộc Nam phương luận bộ, có 47 loại tiêu chuẩn. Trong Xá-lợi-phất-A-tỳ-đàm luận thì có 40 loại (tham chiếu “A-tỳ-đạt-ma luận nghiên cứu”). Trong Câu xá luận thì phân biệt 18 giới lại lập ra 24 hay 25 bộ môn (quyển 3) thật khôngnhất định. Ta có thể nói những tiêu chuẩn đó hoàn toàn dựa trên sự tiện lợi, và ngày nay ta có lập ra tiêu chuẩn mới để phân biệt cũng không trái với ý tứ của A-tỳ-đạt-ma. Do đó, có thể nói không có một tiêu chuẩn nhất định đặc biệt nào. Tuy nhiên, trong đó lại có một chủ ý nhất định, đây là một sự thật không thể bỏ qua. Tức là, trong đó trên đại thể, bao hàm cái tinh thần phán định tất cả theo lập trường tu dưỡng

Sau đây chúng tôi xin đưa ra một vài thí dụ.

Trước hết, là Tam-tinh-môn. Đây là ba loại tiêu chuẩn chiếu theo thiện, ác và vô kýphân biệt mọi vấn đề. Nghĩa là: “những yếu tố nào thuộc về thiện, những yếu tố nào thuộc về ác, và những yếu tố nào thuộc về vô ký (không thiện, không ác – trung lập)”, v.v… đây cũng là phương pháp muốn theo tiêu chuẩn đạo đức để thuyết minh cái tính chất của những yếu tố được đưa ra. Đương nhiên phương pháp này hàm ngụ cái ý lấy việc tưởng thưởng thiện, ức chế ác làm mục đích.

Thứ hai là Giới-hệ-môn. Đây là sự phân biệt muốn thuyết minh trong 18 giới, 22 căn, cho đến 5 uẩn có bao nhiêu thuộc về dục giới, bào nhiêu thuộc về sắc giới, và bao nhiêu thuộc về vô sắc giới? Bất luận là 22 căn hay 18 giới, tất cả đều là yếu tố quan lấy nhân gian làm tiêu chuẩn, cho nên, từ nhân gian trở lên sắc giớisắc giới thì lại có sự bất đồng. Tóm lại, ngôi vị càng cao thì yếu tố dần dần trở nên bất túc: đó là thế-giới-quan của A-tỳ-đạt-ma. Bởi vì khi đi lên thì tất phải cởi bỏ những ràng buộc của nhục thể mà đề cao sinh hoạt tinh thần. Mục đích của Giới-hệ-môn là thuyết minh cái thứ tự đó và, như vậy, không ngoài việc muốn ức chế dần dần những sinh hoạt của thân tâm mà đề cao con đường đi lên.

Lại còn một thí dụ nữa: đó là cách thuyết minh về Tam-đoạn-môn. Theo Phật giáo, sự mê lầm của ta đại thể được thành hai loại: một là mê về trí thức, hai là mê về tình ý; cho nên phương pháp trừ mê cũng có hai loại: thứ nhất gọi là “kiến đạo đoạn”, thứ hai gọi là “tu đạo đoạn”. Mà chiếu theo tiêu chuẩn này để nhận định các pháp thì trong đó có pháp do thấy đạo mà đoạn, cũng có pháp do tu đạo mà đoạn, cho đến có cả pháp vô vipháp không cần phải đoạn (phi sở đoạn). Chính Tam-đoạn-môn thuyết minh về điểm này và nó là một môn phân biệt được coi như trọng yếu nhất của A-tỳ-đạt-ma.

Ngoài ra, còn có nào là hữu-lậu-vô-lậu-môn, hữu-vi-vô-vi-môn, cho đến xả, lạc, xả ba đại-thụ-môn, v.v… nhưng bất luận là loại nào, cái điểm quy kết của nó vẫn hữu dụng đối việc tu dưỡng và có mục đích phân biệt, đó là một sự thật hiển nhiên. Mà những loại phân biệt phiền tỏa đó, khi nhìn bằng nhãn quang phân biệt, ta thấy có một ý vị đặc biệt, đó là điều ta không thể bỏ qua. Không những thế, trong Chư-môn-phân-biệt, dù cho mục đích tối hậu có là sự tu dưỡng đi nữa, nhưng trực tiếp cũng có bộ môn thay vì đứng về phương diện tu dưỡng lại đứng về phương diện tri thứcthuyết minh tính chất của nó. cẳng hạn như môn có-thể-thấy-không-thể-thấy, chướng-ngại-vô-chướng-ngại-môn, nhiên-khả-nhiên-môn, tích-tụ-phi-tích-môn, v.v… chính là điểm này. Cho nên Chư-môn-phân-biệt, không những chỉ về mặt tu dưỡng, mà về mặt tìm hiểu tính chất của các pháp và sự tổ chức của thế giới, ta cũng cần lý giải một cách thích đáng khi lợi dụng nó vào một đích đó. Cái lý do tại sao các A-tỳ-đạt-ma luận thư, mỗi luận cứu các vấn đề phiền tạp đều đặt ra môn phân biệt chính là điểm đó. Điều khiến cho người đoc cảm thấy mỏi mệt và nản chí nhất khi đọc các A-tỳ-đạt-ma luận thư chính là Chư-môn-phân-biệt này. Ở đây, chúng tôi đặc biệt dành một môn này là muốn cố gắng trình bày một cách cặn kẽ về những môn phân biệt ấy, nhưng vì chúng phiền tạp quá, không thể đi sâu vào chi tiết được, nên chỉ trình bày được một cách khái quát như trên mà thôi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29871)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27128)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21748)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22218)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23597)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20394)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20038)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21929)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24719)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18957)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24699)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30948)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23956)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27748)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26494)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21281)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23199)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38087)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18796)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18420)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19925)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19013)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23127)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23862)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22774)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22889)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29554)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20623)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18684)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15827)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18821)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19634)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20137)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19927)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18102)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22903)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34147)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16405)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16903)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39181)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26022)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20077)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18811)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24032)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29086)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22895)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30917)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20995)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26836)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20652)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26229)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23308)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19810)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24648)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 29990)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20201)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20392)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15130)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15819)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23845)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant