Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương V: Thiện, Ác Nghiệp Với Quả Báo

01 Tháng Mười 201000:00(Xem: 11538)
Chương V: Thiện, Ác Nghiệp Với Quả Báo


Chương V: Thiện, Ác Nghiệp Với Quả Báo

1- LỜI TỰA.

Những điểm được trình bày ở trên tuy hơi tạp loạn, nhưng cách xử lý của A-tỳ-đạt-ma chủ yếu là lấy việc lánh ác đức tiến đến thiện đức làm căn bản. Do đó, vấn đề được nêu lên ở đây là sự thù báo của những hành vi thiện, ác như thế nào? Những hành vi thiện ác tự chúng đã có ý nghĩa hoàn thành, mà sự sinh hoạt ở đời vốn lấy công lợi làm căn cứ, điều thiện cần được tưởng lệ, điều ác cần phải xa lánh. Chính vì thế mà tư tưởng nghiệp báo được thành lập, tức thiện nghiệp sẽ mang lại quả báo hạnh phúc, ác nghiệp sẽ đưa đến quả khổ. Đương nhiên, cái lý tưởng tối cao của Phật giáo, như đã thường nói, là ở chỗ giải thoát Niết bàn, lấy đó làm mục tiêu đức hạnh, tuy ở cái gọi là “vô sở đắc” (như Đế Thích vì muốn thử hạnh bá thí của Bồ tát, mới giả hiện ra địa ngục, rồi bảo người hành thí phải vào địa ngục, còn kẻ thụ thí thì sinh lên cõi Trời. Nhưng Bồ tát vẫn mạnh dạn tuyên bố quyết thực hành bá thí), song, ở trong luân hồi giới thì nhưng nhiên thiện có thiện báo, mà ác thì có ác báo. Nhờ ở sự kỳ vọng đó mà những hành vi luân lý của người ta mới có thể tăng tiến, đó là một sự thật hiển nhiên. Vả lại, theo Phật giáo, đó là quy luật tự nhiên. Chiếu theo Phật giáo nguyên thủy, đức Phật đứng trên lập trường giáo huấn, tuy thường nói “thiện nhân thiện quả, ác nhân ác quả”, nhưng nếu thuyết minh nó dưới hình thái lý luận thì, theo chỗ tôi tận lực nghiên cứu, trong Ni Kha Da vẫn chưa thấy biểu hiện. Song, căn cứ trên lập trường tâm lý luận và sinh mệnh quán mà biến cải nó theo hình thái lý luận thì thành ra pháp tắc “tự nghiệp tự đắc”, tóm lại, giữa ý chí, kinh nghiệm, tính cáchhành vi, có một trật tự nhất định, cái gọi là “tự nghiệp tự đắc” chính là chỉ sự thật đó. Về điểm này, tôi đã nói qua trong cuốn Nguyên Thủy Phật Giáo Tư tưởng Luận (cùng một tác giả - chú của người dịch) rồi. Rồi lại muốn chỉnh lý nó về phương diện hình thức, chính là A-tỳ-đạt-ma luận thư.

2- ẢNH HƯỞNG TÂM LÝ VỚI NGHIỆP.

Trước hết, hãy nói về sự thể của nghiệp. Như đã trình bày ở trên, về mặt tâm lý, do những hành vi thiện ácthân tâm ta chịu một tính cách nhất định, tuy là vô ý thức nhưng đó là một sự thật vĩnh viễn bất diệt. Nhưng, theo quy mô Phật giáo, vấn đề tính cách nên được thuyết minh như thế nào thì lại có nhiều giải thích khác nhau. Thật ra, về điểm này, tôi đã thường đề cập đến ở trên, nhưng theo thuận tự, ở đây lại xin nói một cách đơn giản về nhận xét thêm.

Đứng trên lập trường cơ giới chủ nghĩa mà nói, thì sinh mệnh quan lấy nghiệp tập nằm trong tổ chức sinh mệnh mà thêm vào cho đặc sắc sinh mệnh. Hữu-bộ nói vô biểu sắc chính là đại biểu cho tưởng pháp đó. Theo lập trường này thì sinh mệnh (hay tâm) của chúng ta là do các uẩn hòa hợp, chỉ là kết quả của sự tích tụ một cách máy móc, bởi thế, nếu đem nó phụ thuộc vào nghiệp tập đặc thù tất kính cũng không ngoài tính cách máy móc. Trái lại, nếu đứng trên lập trường sinh cơ chủ nghĩa mà nói, thì vì coi tổ chức sinh mệnh (hay tâm) là một loại có cơ thể, nên nghiệp tập, tùy theo cách phát động hữu cơ thể như thế nào, mà rốt lại cũng không ngoài cái tính cách hoặc khuynh hướng của khả năng thái đó. Ấy là tư tưởng đại biểu lấy kinh Lượng Bộ làm điểm xuất phát để tiến triển trải qua đến những tư tưởng Duy Thức v.v… Luận bộ Nam phương đã tiến đến tư tưởng “Hữu Phân Thức”, nói theo lập trường Nghiệp Luận, có lẽ là đứng ở khoảng giữa hai tư tưởng trên đây. Hữu Phân Thức, thể vô ý thức - về điểm được coi như chỗ chứa giữ nghiệp tập, tuy có giống như tư tưởng chủng tử lấy Căn Bản Uẩn làm trung tâm, nhưng lấy nó làm chủ mà coi là thụ động thì, về điểm không có sự tự phát, nó không khỏi có tính cách rất máy móc. Thật ra, coi nghiệp như máy móc, giải thích nó như sinh sơ với các nhà chủ trương Hữu Ngã Luận, coi nghiệp phụ thuộc Ngã, đương nhiên đã có sự bất đồng rất lớn, thế nhưng ở điểm lấy nghiệp tập làm bản chất sinh mệnh (nhất là khi xét về tác dụng) thì đồng nhất; tuy nhiên, về phương diện khái niệm, nếu bảo bên nào đúng, bên nào sai, thì điểm bất đồng giữa hai bên là: các nhà cơ giới chủ nghĩa cho nghiệp là một vật phụ thuộc, còn các nhà sinh cơ chủ nghĩa thì cho nó là bản chất.

3- NGHIỆP VÀ QUẢ BÁO.

Lấy nghiệp thiện ác làm nhân để dẫn phát đến quả như thế nào? Nếu nói một cách chặt chẽ thì do các lập thuyết nhân quả mà có nhiều cách giải thích khác nhau[1]. Nhưng, trên đại thể, tôi tưởng ta có thể chia làm hai loại. Nói theo thuật ngữ thì đó là phương diện đồng loại nhân nghiệp dẫn đến đẳng lưu quả (gồm tăng thượng quả) và phương diện dị thục nhân nghiệp dẫn đến dị thục quả. Đúng ra thì quan hệ giữa hai phương diện đó vì quá mật thiết nên không thể tách rời ra được, tuy nhiên, để tiện lợi cho việc quan sát, chúng ta hãy tạm chia thành hai phương diện như trên. Thứ nhất, đồng loại nhân đẳng lưu quả, khi xét về mặt sự thực, thì dù cho là nhân quả tâm lý cũng có quan hệ, nghĩa là nghiệp và quả, trên tính chất là đồng nhất. Thường nghĩ đến hành vi xấu thì kết quả sẽ trở thành người xấu, tiến lên nữa sẽ trở thành ác quỷ; cũng thế, nếu thường nghĩ đến hành vi tốt thì kết quả sẽ trở thành người tốt, tiến mãi sẽ trở thành thánh nhân, thiên sứ v.v… Mà điều này, trên kinh nghiệm, là một sự thật hiển nhiên. Nguyên tắc giáo dục thực tế, tuy cũng như thế, nhưng Phật giáo còn truy nguyên nó đến ba đời, nghĩa là, người tốt, người xấu, người ngu, người hiền ở kiếp này đều do nghiệp tập của họ ở kiếp trước (nhưng không phải là chủ trương Túc Mệnh Luận). Thứ hai, dị thục nhân, dị thục quả, là luật nhân quả phổ thông: làm thiện được quả báo sung sướng, làm ác chịu quả báo đau khổ. Cái tình hình giữa dị thục nhân dị thục quảđồng loại nhân đẳng lưu quả có khác nhau, nguyên nhân và kết quả, về tính chất không hẳn giống nhau, cứ theo các nhà chú giải thì khác loài mà chín nên gọi là dị thục quả[2]. Nhân tuy là thiện ác, mà quả là khổ vui (lấy nhân khổ vui mà nói thân tâm vô ký), phạm trù tuy có khác nhau, nhưng cái quan hệ nhân quả đó hoàn toàn xuất phát từ yêu cầu luận lý của người ta, đến như cái quan hệ tất nhiên của nó thì không dễ gì chứng minh được. Song, nếu không lập thành nhân quả thì, trên thực tế là một đều vô cùng thiếu sót, bởi thế, Phật giáo cho tác dụng bên trong đồng loại nhân đẳng lưu quảchân lý dễ nhận và khoáng trương nó qua ba đời để nói rõ thỏa đáng tính của nó về mặt giá trị vậy.

Do hai loại nhân quả trên đây, mà thấy được sự bất đồng giữa các tác dụng tâm lý và vật đồng sinh, sự bất đồng về vận mệnh khổ vui, nếu nói một cách đơn giản, thì đó là nói rõ những tướng trạng khác nhau của thế giới, và đó cũng chính là một đặc trưng về thế giới quan (hay nhân sinh quan) của A-tỳ-đạt-ma. Ở đầu phẩm Nghiệp trong Câu xá, nói “Đời khác bởi nghiệp sinh” chính là muốn nói rõ điểm đó.

Song, vấn đề được đặt ra ở đây là, thế giới duy chỉ có nghĩa là hữu tình thế gian hay còn bao hàm cả ý nghĩa khí thế gian nữa? Ở thời đại Phật giáo nguyên thủy chỉ luận về cái gọi là “thế giới của chúng ta”, còn thế giới vật lý thì không thành vấn đề đặc biệt. Nhưng đến A-tỳ-đạt-ma thì vì đồng thời với Nghiệp Luận, thế giới quan cũng đã phát đạt, cho nên nó đã thành vấn đề rõ rệt. Về điểm này, trưng theo Luận Sự thì Án Đạt La Phái chủ trương “Địa cầu này cũng là nghiệp quả (K, V, VII)”. Phái này và Chính-lượng-bộ cùng chủ trương “Vật chất cũng là dị thục quả (K,V. XVI, 8)”, hiển nhiên ta thấy thế giới vật lý cũng y vào kết quả của nghiệp, Thượng tọa bộ Nam phương trước sau vẫn giữ lập trường của Phật giáo nguyên thủy, tuy muốn hạn cục nghiệp quả vào hữu tình thế gian, nhưng như thế không khỏi có điểm không triệt để. Hữu-bộ, lúc đầu tuy không được rõ, nhưng đến Bà sa (quyển 98 và 127), Câu xá, (quyển 13) v.v… không những cho hữu tình thế gian mà ngay cả khí thế gian cũng y vào sự sai biệt của nghiệp (như Câu xá, nói: “Hữu tình thế gian và khí thế gian đều sai biệt nhiều và những sự sai biệt ấy do đâu mà có? Đáp: thế giới sai biệt do nghiệp sinh”, (quyển 13). Chúng tướng của hữu tình là do biệt nghiệp chiêu cảm, chủng tướng của khí giới là do cộng nghiệp chiêu cảm, cách thuyết minh này, có thể nói, cách thuyết minh cộng thông từ Bà sa trở về sau[3] đến Luận bộ Bắc phương, như luận Thành thật[4] cũng rõ ràng đã dùng thuật ngữ cộng nghiệp. Từ thuyết này lại tiến lên một bước nữa là luận Duy Thức bảo rằng hết thảy chủng tử của A lại gia thức biến hiện.

Còn một điểm nữa tuy không quan trọng, nhưng vì nó có liên quan đến vấn đề này nên không thể bỏ qua. Đó là: sự quan hệ giữa nghiệp và quả dị thục duy chỉ hạn cục trong nghiệp thiện ác mà không có trong vô ký? Về vấn đề này, chủ trương của các bộ phái, trưng theo Luận sự 12, 2, cho rằng tất cả nghiệp đều có dị thục quả, cho dù nghiệp vô ký cũng có quả dị thục. Nhưng Thượng tọa bộ Nam phương, Hữu-bộ (Bà sa, quyển 19. Đại chính, 27, trang 918, trung và quyển 115, Đại chính, 27, trang 598, cột trên) và Thành-thật-luận (quyển 7, Tam Nghiệp phẩm 100, Đại chính, 32, trang 295, cột giữa) đều phản đối thuyết này. Song, nói một cách thực tế, cũng có phái triệt để thừa nhận vô ký nghiệp nhưng nhiên vẫn có quả. Theo Phật Âm cho ta biết thì phái chủ trương thuyết này là Đại chúng bộ

4- NGHIỆP BA THỜI.

Tóm tắt, nghiệp của người ta tất phải đưa đến quả báo nhưng đến thời kỳ đưa đến quả báo ấy như thế nào? Để trả lời cho câu hỏi này, có một thuyết mà ai cũng biết, đó là thuyết Tam Thời Nghiệp (đặc biệt về quả dị thục). Thuyết đã được nói đến Ni Kha Da rồi, đến A-tỳ-đạt-ma nó được phân tích tỉ mỉ mà trở thành một đề mục luận cứu. Tam Thời Nghiệp[5] là: 1- Thuận Hiện Pháp Thụ (Thành Thật gọi là Hiện Báo), 2- Thuận Thứ Sinh Thụ (Thành Thật gọi là Sinh Báo), Thuận Hậu Thứ Thụ (Thành Thật gọi là Hậu Báo).

Thứ nhất, Thuận Hiện Pháp Thụ, nghĩa là đời này gây nghiệp, đời này chịu quả báo. Thứ hai, Thuận thứ Sinh Thụ, nghĩa là đời này tạo nghiệp, đời sau mới chịu quả báo. Thứ ba, Thuận Hậu Thứ Thụ, nghĩa là đời này gây nghiệp, trong nhiều đời sau mới chịu quả báo. Cứ theo Phật giáo thì nghiệp không phải thành quả báo cùng một lúc với sự tạo tác (Bà sa quyển 114, Đại chính, 27, trang 592, cột trên; Thành Thật, quyển 8, Tam báo nghiệp phẩm 104), mà phải có thời gian liên tục, dần dần lớn mạnh mới thực hiện được quả, và do thời gian thực hiện đó có nhanh, chậm khác nhau nên mới chia ra ba thời kỳ như trên. Nhưng thật ra, nếu người ta muốn lấy thiện, ác và họa, phúc hoàn nhất trí ở đời này là một điều rất khó khăn. Ở đời này duy chỉ hoàn thành được một phần nhỏ, còn đại bộ thì, trái lại, lại là một sự thật tương phản. theo ý nghĩa ấy, muốn tìm cầu cái thỏa đáng tính của nó. Thành-thật-luận, trong phẩm Tam báo nghiệp, có trích dẫn một bài kệ xưa như sau: “Kẻ làm ác được sung sướng là vị ác chưa chín, đến khi ác chín thì tự thấy đau khổ. Kẻ làm thiện phải chịu khổ là vì thiện chưa chín, đến khi thiện chín thì tự thấy sung” để nói rõ cái ý nghĩa luân lý của thuyết Tam Thời Nghiệp. Nói một cách rốt ráo thì nghiệp nào là nghiệp chịu quả báo trong đời này, nghiệp nào là nghiệp chịu quả báo trong đới sau hay đến nhiều đời sau nữa? Đúng ra, đây là một vấn đề. Câu xá (quyển 15), Thành Thật (Tam báo nghiệp phẩm), Bà sa v.v… đều muốn theo tính chất của nghiệp mà quy định vấn đề này. Nếu theo nghiệp thì là hành vi ý chí, tuy cực mãnh liệt nhưng nếu động cơ hay quy mô của nó không trọng đại thì được quả báo trong đời này; còn tuy không mãnh liệt nhưng rất sau nặng thì chịu quả báođời sau; hai tính chất trên giao thoa nhau thì chịu quả báo ở nhiều đời sau nữa (Thành Thật, như trên). Còn một thuyết nữa căn cứ theo lòng mong cầu: mong cầu đựợc hưởng quả ngay trong đời này là Thuận Hiện thụ, nếu mong cầu hưởng thụ ở tương lai là hai báo sau (Thành Thật, như trên). Bà sa (quyển 114,Đại chính, 27, trang 594, cột trên), lại còn so sánh giá trị của Tam Báo, bảo: hiện báo nhẹ nhất, thứ báo nặng hơn, và hậu báo nặng nhất. Cũng như trái cây, chín sớm thì kém, chín muộn thì hơn. Vậy, nói cho dễ hiểu quả báo càng lớn thì càng chậm chín, cũng như ý nghĩa chí khí lớn, lâu thành công, hoặc như sự trúng độc thấm dần thì khó chửa trị: có thể nói đều ám thị ý nghĩa ba đời.

Phật giáo thành lập thuyết Tam thời Nghiệp, tuy gọi là định nghiệp, nhưng trong A-tỳ-đạt-ma , ngoài định nghiệp, còn lập nên bất định nghiệp nữa. Như Tam Thời Nghiệp, thời kỳ chịu báo và chủng loại đều không nhất định, mà giới hạn trong Tam Thời Nghiệp, do quan hệ thế nào mà sự thụ báo trở thành bất định: đó là bất định nghiệp (như vậy, thành ra bốn nghiệp). Bất định cũng có hai thứ, tức là, thời kỳ định chịu báo mà chủng loại không quyết định, và cả thời kỳ lẫn chủng loại đều không quyết định (thêm hai thứ bất định này vào ba thời kỳ trên thành ra năm nghiệp). Lại tiến lên một bước nữa mà khảo sát thì Tam Thời Nghiệp kể trên tuy thời kỳquyết định, nhưng chủng loại chịu báo thì sẽ thành ra tám thứ: đây là chủ trương của Bà sa (quyển 114, Đại chính, 27, trang 593, cột dưới), đều quyết định thì không thể chuyển được, nhưng bất định nghiệp thì nhờ nỗ lực hậu thiên mà có thể chuyển được, song, về vấn đề này, xin sẽ bàn đến sau.

Tóm lại, thuyết của Tam Thời Nghiệp là đem kết hợp yêu cầu đạo đức của người ta với Luân Hồi luận rồi truy đến ba đời quá khứ, hiện tạivị lai để tìm thỏa đáng tính của nó. Về điểm này, tuy không thể chứng minh một cách rõ ràng, nhưng nếu khảo sát nó về nhiều phương diện, thì bất luận theo kiến địa tâm lý học hay luân lý, có thể nói, đều có một ý vị.

5- NGHIỆP VÀ CÁC LOẠI DỊ THỤC.

Trở lên, chủ yếu là nhận xét về thời kỳ nghiệp báo, giờ đây xin bàn qua về chủng loại của nghiệp báo. Nghiệp vô lậu không chiêu cảm quả dị thục (nhưng chiêu cảm bốn quả khác), nhưng nghiệp hữu lậu thì có quả dị thục. Song, nghiệp hữu lậu đoạn đạo (ta hành) cuối cùngthể đạt đến quả ly hệ (tức giải thoát). Ai cũng biết, đường thiện ác chịu quả báo trong năm đường hay sáu đường mà trong đó người ta gặp những vận mệnh khác nhau. điều này đã được nói đến trong Ni Kha Da nhưng chỉ tản mạn thôi, đến A-tỳ-đạt-ma nó mới được tập hợp lại. Song, theo chỗ tôi tận lực nghiên cứu, Thành Thật luận[6], quyển 8, Lục Nghiệp phẩm 100 mới nói lên được cái yếu nghĩa của nó, bởi thế, ở đây tôi thử dẫn ra những điểm khái quát.

Thứ nhất, là nghiệp cảm chiếu quả báo địa ngục, dĩ nhiênnghiệp nặng nhất. Những người làm đủ ba hạnh sát sinh, trộm cắp, tà dâm, những người phá giới, phá kiến cố nhiên chịu quả báo địa ngục, những gia hại các bậc thánh hiềnliên tục làm ác, cũng chiêu cảm quả địa ngục. Tựu trung, có năm tội sau khi chết phải đọa địa ngục Vô gián gọi là Ngũ Vô Gián Nghiệp: 1- Giết mẹ, 2- Giết cha, 3- Giết A la hán, 4- Phá hòa hợp tăng, 5- Do ác làm cho thân Phật chảy máu (Bà sa, quyển 19, Đại chính, 27, tr. 619, thượng). Giết cha mẹ, bội ơn dưỡng dục, giết ba hạng sau là phá hoại ruộng phúc, đều là tội nặng, và bất luận hễ phạm một trong các tội ấy thì chết đi sẽ phải đọa địa ngục Vô gián. Tựu trung, nói theo lập trường của Phật giáo, phá hòa hợp tăng, vì là phá hoại Giáo Hội, nên là ác nghiệp lớn nhất. Trong thời đại Phật, Đề Bà Đạt Đa, vì tạo hai nghiệp sau, nên một mặt vẫn sống, mặt khác phải đọa địa ngục. Tuy đây là truyền thuyết, nhưng đến đời sau, vì việc làm cho thân Phật chảy máu không thể xẩy ra nữa, nên đặc biệt nhấn mạnh ở việc phá hòa hợp tăng và cho đó là một việc đại ác. Bà sa (quyển 99) bảo vị khai tổ (theo truyền thuyết) của Đại Chúng BộĐại Thiên cho rằng, trừ làm cho thân Phật chảy máu, còn bốn tội kia đều là đại Vô gián nghiệp: xem thế đủ biết, đối với việc phá hoại Giáo hội, Phật giáo chán ghét đến mức độ nào rồi.

Thứ hai, thành nghiệp bàng sanh (súc sanh), nói một cách đại thể, so với nghiệp địa ngục thì nhẹ hơn, tuy có chút ít thiện nhưng vẫn là nghiệp ác hơn. Tựu trung, theo Thành Thật quyển 8, Lục Nghiệp phẩm 110 – Khi người ta phát huy nhiều động vật tính, và thích ứng với tính chất đó, sẽ thành những động vật khác nhau. Như đa dâm chẳng hạn, sẽ thành chim sẻ, chim bồ câu, chim uyên ương v.v… Nếu đa sân thì sẽ thành trăng, rắn, rết, bò cạp v.v… Nếu ngu si nhiều sẽ thành lợn (heo), dê v.v… Nếu kiêu căng phóng túng nhiều sẽ thành sư tử, hổ, lang v.v… Nếu hay bỡn cợt đùa nghịch sẽ thành khỉ vượn v.v… Nếu nhiều ghen ghét, keo bẩn sẽ thành chó. Nếu lười biếng nhiều sẽ thành mèo. Nếu theo nịnh hót sẽ thành dã can v.v… Cứ như thế tùy theo tính chất mà thành nhiều loài khác nhau. Lại nữa, tùy theo lòng khao khát tưởng niệm lúc chết mà sanh vào các loài động vật khác nhau. Chẳng hạn, chết ở chỗ chật chội, khao khát tưởng nhớ đến rộng rãi sẽ sinh làm chim; do chết đói mà sinh làm họ ở nhà xí; vì chết mà sinh làm trùng dưới nước v.v… Trong Pháp Uẩn Túc Luậnthuyết minh về quan hệ luận khi thác sinh theo mười hai nhân duyên như sau: có các loài chúng sinh do tâm mong cầu mà thụ sinh cõi người hay thụ sinh cõi trời (Pháp Uẩn Túc Luận, 12, Đại chính, 26, trang 512, cột dưới). Cứ theo Ni Kha Da thì bắt chước lối sống của súc sinh sẽ là nhân đưa đến sự cùng chịu kiếp súc sinh. Chẳng hạn có một hạng người tu đạo bắt chước trâu, dê, tự hành hạ thân mình và tin rằng đó là nhân sinh lên cõi trời. Đức Phật phê bình họ, bảo rằng, làm theo hạnh trâu sẽ thành trâu, làm chó sẽ làm chó v.v… Tóm lại, cái nhân đưa đến súc sinhngu si, hoặc có ý nghĩa là bắt chước lối sống của súc sinh mà thành.

Thứ ba, là nhân ngã quỷ, tức quỷ đói. Vì tham lam, keo kiệt, cướp đoạt của người, của mình thì giữ bo bo, không chịu cho ai, không có tâm giúp người, cứu vật cũng thuộc loại này, có thể nói quả báo là thường cảm thấy thiếu thốn, đói khát.

Thứ tư, là nhân cõi người, đại kháikết quả của nghiệp thiện như bá thí, giữ giới và tu thiện. Tựu trung, nếu cao thì sinh cõi trời, còn trung bình thì cõi người. Còn như ở cõi người sở dĩ có những vận mệnh khác nhau là vì trong những nhân thiện có lẫn lộn nhân ác. Tuy do nghiệp thiện rõ rệt nào đó được sinh vào cõi người, nhưng vì cái gọi là “mãn nghiệp”, trợ lực cho thiện nghiệp như thế nào mà cho nhân gian trình hiện những tướng trạng khác nhau. Chẳng hạn, nhờ người giúp mà được sống lâu, do sát sinh mà phải chết yểu, nhờ ngay thẳng không trộm cắp được phúc, vì trộm cắp mà phải nghèo khổ, không tà dâm mà lấy được vợ trinh tiết, còn nếu trái lại thì lấy phải vợ lăng lòn, bất chính v.v… (Thành Thật, quyển 8, Lục Nghiệp phẩm 118, về phần cõi ngườicõi trời; Câu xá, quyển 17). Câu xá còn nói: những vật sở hữu của người ta tốt hay xấu cũng là do nghiệp. Như người sát sinh thì vật sở hữu xấu xí, người ăn trộm thì ruộng vườn nhiều sương tuyết gây tai hại, người tà dâm thì gia đình rối loạn, người nói dối thì miệng hôi thối; xa lìa những tội nghiệp đó thì tất cả đều tốt lành. Ngoài ra, còn nhiều cách thuyết minh khác, nhưng sợ phiền phức nên chỉ nói tóm tắt, thế thôi. Duy ở đây không thể không bàn thêm về vấn đề pháp tướng, tức trong Phật giáo có hai lớp quả báo (thưởng phạt). Như làm thiện được sinh lên cõi trời, nhưng khi sinh lại cõi người có thể vẫn được quả báo thiện không? Cũng thế, tạo ác nghiệp phải đọa địa ngục, nhưng khi chịu hết tội khổ, được sinh làm người thì có còn phải chịu sự rủi ro nữa không? Vấn đề này hình như có nhiều dị luận, nhưng Bà sa (quyển 113, Đại chính, 27, trang 588, hạ), Câu xá (quyển 17) v.v…tựa hồ đã thừa nhận điều đó một cách rõ ràng. Như nói: “Khi sát sinh, làm cho kẻ khác chịu khổ nên phải đọa địa ngục chịu quả khổ dị thục; vì dứt mệnh sống của kẻ khác nên trong kiếp sau phải chịu chết yểu, là đẳng lưu quả; phá hoại uy danh của kẻ khác nên sắc diện phải xấu xí, là tăng thượng quả (Câu xá, quyển 17). Vô luận là thiện hay ác, tác dụng của nó đều suy giảm dần dần, nếu không có sự tu dưỡng đặc biệt thì khó có thể biến đổi nó một cách mau chóng được.

Thứ năm, là cõi thiên thượng, nếu nói một cách tóm tắt thì nhờ nghiệp thượng thượng thiện mà được sinh lên đó, nhưng thiên thượng cũng có nhiều loại nên không giống nhau. Ở Dục Giới Thiên, tức đến cõi trời Tha Hóa Tự Tại, cho dù cũng là thiện nhưng do trình độ động cơ thuần tịnh và các loại thiện sự như thế nào mà quả báo cũng có nhiều loại khác nhau. Tiên lên đến Sắc giới, Vô sắc giới thì vì đây duy chỉ là định xứ nên nhân là thiền định. Nghiệp sinh ở cõi Sơ thiền tuy có nhân phụ nhưng chủ yếu là do tu Sơ thiền, cho đến cõi cao tột là sự tu dưỡng Phi-tưởng-phi-phi-tưởng định. Điểm này đã được nói rõ trong Ni Kha Da rồi. Dù là thượng giới sinh địa, hay Tứ thiền tam vô sắc định tu địa, tất cả đều như nhau (Trung a hàm, quyển 34, Phân biệt ý hành kinh, Đại chính, 1, trang 700, trung, M. 120 Sankhàruppatti Sutta).

A-tỳ-đạt-ma cố gắng nghiệp và quả dị thục, nếu nói một cách chặt chẽ thì trong đó có nhiều điểm khó khăn, nhưng đứng về phương diện chỉnh lý hình thức mà nói, ta phải thừa nhận đó là một nổ lực rất lớn. Thế rồi, nếu lại theo cách phân loại về tính chất của nghiệp thì, như ai cũng biết, có thuyết Bốn Nghiệp[7]. Đó là: Hắc hắc dị thục nghiệp, Bạch bạch dị thục nghiệp, Hắc bạch hắc bạch dị thục nghiệp, Phi hắc phi bạch dị thục nghiệp. Thứ nhất, Hắc hắc dị thục nghiệp[8] nghĩa là nghiệp tự nó là đen (tức là ác), do đó mà chiêu cảm quả dị thụcác thú. Thứ hai, Bạch bạch dị thục nghiệp nghĩa là thiện nghiệpSắc giới (Vô sắc giới) hệ. Thứ ba, Hắc bạch hắc bạch dị thục nghiệp nghĩa là thiện nghiệpDục giới hệ, chủ yếu cảm chiêu qiả báo ở cõi người, cõi trời. Thứ tư, là nghiệp vô lậu không cảm dị thục, tức là chỉ cái công dụng của sự đã vĩnh viễn đoạn diệt nghiệp hữu lậu. Trong bốn nghiệp, có thể nói thứ tư là nghiệp giải thoát và đứng trên lập trường tu dưỡng, dĩ nhiên, nó có giá trị của nó. Phật giáo bảo bạch bạch dị thục nghiệp nếu ngưng ở ba cõi thì vẫn là còn chướng ngại đạo giải thoát. Trong kinh gọi tắt phiền não, nghiệp dị thụcba chướng chính[9] là vì thế.

6- DẪN NGHIỆPMÃN NGHIỆP.

Về nghiệp quả báo vẫn còn một vài điểm nữa cần phải bàn qua, đó là: trong các nghiệp người ta tạo tác, quyết định nơi sinh như thế nào? Nói khác đi quyết định thứ sinh hay thứ thứ sinh là các nghiệp tổng hợp hay là một nghiệp rõ rệt? Về điểm này, A-tỳ-đạt-ma bảo có dẫn nghiệpmãn nghiệp[10]. Dẫn nghiệp là nghiệp quyết định nơi sinh, còn mãn nghiệp là nghiệp, dù cùng một nơi sinh, như ở cõi người, chẳng hạn, cũng chia vận mệnh thành nhiều loại. Song, cứ theo A-tỳ-đạt-ma thì dẫn nghiệp là một nghiệp rõ rệt nhất trong cuộc sống;còn mãn nghiệp là các nghiệp khác. Do đó, nói một cách đơn giản, bảo là: “Một nghiệp dẫn một đời, nhiều nghiệp có thể viên mãn”[11]. Cái mà ta bảo là “tối hậu nhất niệm” dẫn đến thứ sinh chính là căn cứ vào giáo lý này. Song, nói thật thì cái nghiệp hiển trứ nhất trong một đời là gì? Vấn đề này người thường thật khó mà quyết định được, cho nên trong Bà sa, quyển 19 (Đại chính, 27, tr. 98, thượng), đã phát sinh ra luận đề “Dẫn nghiệp trước hay Mãn nghiệp trước”.và kết quả, cho là bất định. Rồi đến Bà sa 20 (Đại chính, 27, tr. 99) dẫn nhiều kinh luận bảo rằng do một nghiệp thù thắng chiêu cảm thiện ác nhiều đời để luận cứu ý nghĩa vấn đề này. Vấn này tuy rất phức tạp, nhưng trên đại thể, theo A-tỳ-đạt-ma, không thể quên lập trường “Một nghiệp dẫn một đời, nhiều nghiệp có thể viên mãn”.

7- TÚC NGHIỆP CHUYỂN HAY KHÔNG CHUYỂN.

Theo Phật giáo thì vận mệnh của người ta là do nghiệp hiện tại định đến vị lai, nói khác đi, là vận mệnh hiện tại do kết quả của nghiệp quá khứ, như vậy, chung cùng, Phật giáo đã chẳng biến thành Túc Mệnh luận rồi sao? Như đã nói trước kia, đức Phật đã bác bỏ Túc Mệnh luận, nhưng căn cứ theo quan điểm trên đây, A-tỳ-đạt-ma đã biến thành khuynh hướng Túc Mệnh luận, đó là sự thật không thể che dấu được. Trong bộ phái Phật giáo, như Vương sơn bộ, Nghĩa thành bộ thuộc Đại chúng bộ, bảo: “Tất cả đều do nghiệp” (K. V. XVII, 3). So với quan điểm này, chủ trương Túc Mệnh luận cũng rõ ràng. Song. Nói một cách tổng quát tuy A-tỳ-đạt-ma túc nghiệp, nhưng thừa nhận rằng tùy theo những nỗ lực hậu thiên ra sao mà nghiệp có thể chuyển hóa. những điều được trình bày trên kia chủ yếu nói về hành vi theo ý muốn, chứ không phải khảo lự về nỗ lực đặc thù. Không những thế, nhận xét về mặt pháp tướng, ngoài Tam Thời Nghiệp ra, Hữu-bộ còn lập Bất định nghiệp, Tam Thời Nghiệp là định nghiệp không thể chuyển nhưng bất định nghiệp thì nhờ nỗ lực, có thể chuyển. Cứ theo thuyết Tám nghiệp nói ở trên thì phạm vi của Bất định nghiệp rất rộng, như Tam Thời Nghiệp, thời kỳ tuy quyết định, nhưng các loại dị thục thì đều không quyết định. Trong tám nghiệp đến năm nghiệp, ít ra, không thể không thừa nhậntính chất chuyển quả báo. Vả lại, chủ trương của các nhà Thí Dụ là hết thẩy nghiệp đều có thể chuyển (Bà sa, quyển 114, Đại chính, 27, tr. 593, cột giữa). Nếu bảo Tam Thời Nghiệp rốt cục là chỉ quá trình như thực thì, khi cố gắng, không thể không thừa nhận hết thảy là bất định. Tuy không nói rõ, vì nghiệp tất kính không ngoài tính cách của ý chí, nên tập khí cho dù sâu dày đến đâu, nhưng do sự cố gắng liên tục cũng có thể biến cải được. Theo ý nghĩa ấy, Thành Thật luận, kế thừa Thí Dụ Sư đã dẫn lời trong Kinh, nói: “Nếu người chăm tu thân giới,tâm tuệ, thì báo nghiệp địa ngục cũng có thể giảm khinh”. Lại như bài kệ nói: “Tu tâm từ bi, vô lượng vô ngại, tất cả trọng nghiệp không thể sánh kịp”. Dẫn chứng trong Kinh, thừa nhận túc nghiệp có thể chuyển. Đương nhiên, Thành Thật chủ yếu luận về các bậc Thánh[12] (Bà sa) giới hạn trong các bậc Thánh vô học) nếu là Thánh hữu học thì, vì gần với phàm phu, tuy là người phổ thông, nhưng nhờ sức cố gắng phi thường mà tự tiến đến bậc Thánh, chủ trương hết thảy túc nghiệp đều có thể chuyển: tôi cho rằng có thể giải thích vậy. Phật giáo chủ trương “sám hối diệt tội” lý do chính là ở đó. Ta cần ghi nhận điểm này. Tương truyền, khi Đại Thiên phạm vào ba tội nghịch thì lòng thường bất an. Một hôm, ông nghe thấy một vị Tỷ khưu ngâm bài kệ rằng: “Nếu kẻ gây trọng tội, tu thiện để diệt trừ, họ có thể sáng chói, như trăng không mây che” (Bà sa, quyển 99, Đại chính, 27, trang 511, cột trên) và đó chính là động lực đã thúc đẩy ông xuất gia. Trường hợp của Đại Thiên trên đây cho thấy Phật giáo thừa nhận trọng tội cũng có thể được miễn trừ nếu người ta biết ăn năn, tu thiện. Điều này cứ xem ý nghĩa trong bài kệ trên thì đủ rõ.

Tóm lại, nói một cách đại thể, Phật giáo tuy thừa nhận túc nghiệp, nhưng chưa thể quyết định được là túc nghiệp ấy có giống như cái gọi là Thần Ý luận hay Túc Tác luận không. Ở hiện tại, con ngườiý chí tự do, đồng thời, tuy có túc nghiệp quá khứ, nhưng nhờ nỗ lực, tập quán, tín ngưỡnggiác ngộ nó có thể được biến đổi. Thừa nhận thuyết Nghiệp mà không biến thành Túc Mệnh luận, có thể nói, đó là đặc trưng của Phật giáo vậy.


[1] Câu xá, quyển 17, bảo nghiệp dẫn đến nhiều loại quả; chẳng hạn: “Nghiệp thiện và bất thiện được quả như thế nào? Tất cả đếu có thể chiêu cảm quả dị thục, đẳng lưu và tăng thượng”. Rồi đưa ra trường hợp sát sinh làm thí dụ: Hành sát sinh trước hết cảm quả dị thụcđịa ngục, sau sinh làm người, thọ mệnh ngắn ngũi là đẳng lưu quả, còn những gì bên ngoài được sáng sủa là tăng thượng quả (thủ ý).

[2] Thục có hai loại: 1- Dị loại, Đồng loại thục, tức đẳng lưu quả, nghĩa là thiện sinh thiện, ác sinh ác, vô ký sinh vô ký. Dị loại thục, tức là dị thục quả, nghĩa là thiện và bất thiện sinh quả vô ký (Bà sa, quyển 49, Đại chính, 27, trang 97, cột giữa).

[3] “Hỏi: Trong khí thế giới Tô-mê-ly-sơn châu này, tất cả hữu tình đều do cộng nghiệp phát khởi. Trong đó người ban Niết bàn thì tại sao những vật ấy lại không giảm thiểu? – Tôn giả Thế Hữu đáp rằng: “Nếu vật do sĩ dụng quảtăng thượng quả gần sinh cũng có giảm thiểu” (Bà sa quyển 21, Đại chính, 27, trang 106, hạ). “Song, số hữu tình trong các thế gian đều do tự nghiệp phiền não mà sinh; tình số thì hết thảy nghiệp hữu tình do sức tăng thượng cùng dẫn khởi” (như trên, quyển 8, Đại chính, 27, trang 508, thượng). Loài hữu tình ở đây do cộng nghiệp tăng trưởng mà thành thế giớ, nếu cộng nghiệp hết thì thế giới hoại diệt (như trên, quyển 134, Đại chính, 27, tr. 692, hạ).

[4] Hết thảy vạn vật đều do cộng nghiệp sinh (Thành thật, quyển 8. Thập-bất-thiện-đạo-nghiệp phẩm 116, Đại chính, 32, trang 304, hạ). Tất cả chúng sinh đều có quả báo cộng nghiệp, nghĩa là được nơi cư ngụ là nhờ nghiệp nhân duyên mà có đất. Do nghiệp nhân duyên sang tỏ mà có mặt trời, mặt trăng. Nên biết sinh vật đều lấy nghiệp làm gốc (như trên, quyển 7. Hệ nghiệp phẩm 103. Đại chính, 32, trang 296, hạ).

[5] (Visuddimagga; Chap. 19 (p. 601) Warren: Buddhism inTranslation p 245, Thuận Hiện, Thuận Thứ, Thuận Hậu Định. Lạc Tạ nghiệp (pháp không sinh?). Phẩm Loại Túc Luận, quyển 17 (Đại chính, 20, trang 718, thượng). Đại tỳ bà sa, quyển 14, Đại chính, 27, trang 599), Câu xá luận quyển 15. Thành-thật-luận quyển 8, Tam báo nghiệp phẩm 106 (Đại chính, 32, trang 297).

[6] Lục Nghiệp phẩm: “Về báo nghiệp ở địa ngục, trong Lục Túc A Tỳ Đàm, Lâu khối phận đã nói rõ (Đại chính, 22, trang 300, cột giữa).

[7] Xuất xứ của bốn nghiệp (hắc, bạch v.v…) Trung a hàm quyển 27, Đạt Phạm kinh (Đại chính, 1, tr. 690, thượng). Tập Dị Môn Túc luận, quyển 7 (Đại chính, 26, tr. 396, thượng); Bà sa, quyển 114 (Đại chính, 27, tr. 599, hạ); Câu xá, quyển 17; Thành Thật, quyển 8 (Tứ nghiệp phẩm 107).

[8] Visuddimagga XIX, p. 601 giới thiệu bốn nghiệp bất đồng. Tức Sinh nghiệp, Chỉ trì nghiệp, Ức chế nghiệp, tức khi nghiệp quả sinh khởi thì, ức chế sự khổ vui của nó; phá hoại nghiệp, tức phá hoại nghiệp khác để tự khai phóng vận mệnh.

[9] Về ba chướng, xin xem Bà sa quyển 115 (Đại chính, 27, tr. 519, trung trở đi); Câu xá, quyển 17; Thành Thật, quyển 8 (Tam chướng phẩm 106).

[10] Xuất xứ của Dẫn nghiệpMãn nghiệp; Bà sa quyển 19 (Đại chính, 27, tr. 98, thượng); như trên, quyển 20 (Đại chính, 27, tr. 99, thượng); Câu xá, quyển 17.

[11] Bà sa quyển (Đại chính, 27, tr. 99, trung); Câu xá, quyển 17. Trong Yogssutra II, 13 (chú thích của Vyasa) lần lượt nói thuận hiện thụ, bất thuận hiện thụ, định nghiệp, bất định nghiệp, luận về quan hệ giữa nhất, đa (nghiệp) và nhấ, đa (sinh), có thể tham khảo.

[12] Nếu họ không hăn hái tu đạo để thành A la hán thì sẽ đọa địa ngục để chịu nhân quả ; nếu hăn hái tu đạo A-la-hán thì có thể lấy các nổi khổ ở địa ngục trong bản thân để chịu nghiệp này (Bà sa quyển 20, Đại chính, 27, trang 109, thượng).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29865)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27125)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21745)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22215)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23595)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20390)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20035)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21921)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24718)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18954)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24695)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30946)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23955)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27746)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26492)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21280)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23196)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38085)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18796)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18417)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19922)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19011)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23124)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23860)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22772)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22888)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29551)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20615)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18683)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15824)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18818)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19632)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20134)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19925)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18096)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22896)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34147)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16403)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16901)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39178)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26020)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20076)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18807)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24032)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29084)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22895)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30913)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20995)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26829)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20651)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26228)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23308)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19807)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24632)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 29974)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20197)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20388)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15128)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15816)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23844)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant