Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương II: Ba Tính Thiện, Ác, Vô Ký

01 Tháng Mười 201000:00(Xem: 11930)
Chương II: Ba Tính Thiện, Ác, Vô Ký


Chương II: Ba Tính Thiện, Ác, Vô Ký

1- TIÊU CHUẨN THIỆN, ÁC.

Điểm chủ yếu của đạo đức là làm lành lánh ác. Do đó, các phạm vi của đạo đức, nói theo tâm căn hoặc hành động, tất kinh không ngoài hai ngã thiện, ác; hoặc giả, giữa khoảng đó thêm một yếu tố trung-gian không thiện, không ác thì thành ra ba ngả. Phật giáo, nhất là A-tỳ-đạt-ma, hoàn toàn căn cứ vào phương pháp chia ba trên đây để đánh giá đạo đức. Nói theo thuật ngữ thì đó là ba tính thiện, ác và vô-ký.

Song, nếu bảo thế nào là thiện, thế nào là ác, nói theo thường thức, thì không thể quyết định một cách đơn thuần được. Sự bình-giá thiện ác, ít ra là trên kinh nghiệm, do thời gian, xứ sở và vị trí mà có sự bất đồng rất lớn. Về điểm này, cứ xem những lời Phật nói trong Ni-kha-da, Phật tuy luôn luôn nói đến thiện, ác, nhưng chủ yếu là lấy mục-tiêu thực tiễn làm mục đích, trên quan hệ, cố nhiên cũng nói theo nguyên-tắc nhất-ban, nhưng về phương diện đức mục thì, chẳng qua chỉ lấy chỉ thị làm thông lệ mà thôi. Ai cũng bết làm mười điều lành là thiện, tạo mười nghiệp ác là ác, mà điều này hầu như đã trở thành một thuyết minh có định hình. Song, nếu chỉ có thế thôi thì sẽ thiếu mất cái nguyên tắc nhất ban, trên quan hệ, đến A-tỳ-đạt-ma, tuy nghiên cứu ý nghĩa của lời nói trong các kinh, nhưng đối với thiện, ác dần dần đã muốn nói rõ cái căn cứ nhất ban của nó.

Nhưng, A-tỳ-đạt-ma đặt tiêu chuẩn thiện, ác ở điểm nào? Về điểm này, sự khảo sát tuy phức tạp, nhưng cái tiêu-chuẩn trước hết thì đại thể là hạnh phúc. LuậnThành-thành 8, phẩm Tam-nghiệp 100, nói:

“Bất luận nghiệp nào có thể làm cho người khác những điều tốt lành, thì gọi là thiện. Làm cho người khác được vui thì gọi là hảo, cũng gọi là thiện, cũng gọi là phúc”[1]

Mà “làm việc tốt lành cho người” ở đây, nói theo lập trường Phật giáo, cũng tức là làm cho chính mình; bởi thế nói cách nghiêm khắc, khi đem lại hạnh-phúc cho người thì chính mình cũng được hạnh phúc, cứ thế mà làm thì gọi là thiện; nếu việc trước mắt, đối với mình, tuy có lợi ích nhưng hại cho người khác mà cứ làm thì gọi là ác, còn ở vào giữa khoảng đó thì gọi là vô-ký. Tức là, nếu kết quả của việc làm mang lại lợi ích cho mình, cho người là thiện, còn ngược lại, là ác. Mà con đường điều hòa tự lợi, lợi thaứng dụng pháp tắc luân hồi nghiệp báo. Khi làm một việc gì, đối với mình dù không có lợi ích, nhưng nếu nó tăng thêm hạnh phúc cho người khác thì cuối cùng chính mình cũng được quả báo hạnh phúc, theo ý nghĩa ấy, việc làm đó là thiện (về ý hiện, tham chiếu Atthasalini p, 38, f. The expositor I, pp. 48 – 49). Thành-duy-thức-luận nói: “Thuận ích đời này, đời khác là thiện, hại tổn đời này, đời khác là ác”[2], chính cũng do ý nghĩa trên đây mà ra. Ðứng về phương diện người hành động mà nói thì tiếng đời này, đời khác có thể được hiểu theo nghĩa thuận hiện-báo, thuận sinh báo v.v… nhưng nếu chia nó thành mình, người, thì tôi cho rằng chúng ta có thể giải thích như thế này: đới này là chỉ cho người khác hay xã hội, còn đời khác là chỉ cho chính mình. Theo ý nghĩa ấy, ta có thể nói luân-lý-quan của Phật giáo là một thứ công-lợi-luận. Nếu chỉ hạn cục trong ý nghĩa ấy thì nó là chủ-nghĩa công-lợi, nhưng nếu quan sát nó thông cả ba đời (tam thế) thì nó cũng có thể là kiêm cả tự-lợi chủ-nghĩa và lợi-tha chủ nghĩa.

2- Ý NGHĨA HẠNH PHÚC.

Song, ở đây lại thành vấn đềhạnh phúc tức là ý nghĩa vui sướng. Bản tính con người là truy cầu hạnh-phúc, cho nên, những hành vi mang lại hạnh phúc cho mình và cho người, ít ra, tên kết quả, không trái với lẽ thiện, nhưng vì cái ý nghĩa của hạnh phúc không rõ ràng, cho nên từ xưa người ta đã cho đó là khuyết điểm của luân-lý-quan hạnh-phúc. Phật-giáo nói, hanh-phúc (tức là lạc) có nghĩa là thỏa mãn mọi ý dục, người được quả thiện hầu như có nghĩa thỏa mãn với cảnh ngộ đó, về điểm này, cứ xem cách dụng ngữ thì đủ rõ. Song, dĩ nhiên, đây không phải là mục đích tối cao của Phật-giáo. Phật-giáo chán hạnh-phúc có nhiều biến hóa, bởi thế, tuy cũng tầm cầu hạnh phúc nhưng lại lấy hạnh phúc vĩnh viễn bất biến làm lý-tưởng. Ðó chính là giải thoát niết-bàn, bởi Phật giáo thường nói “Niết bàn là niềm vui tối cao”. Do đó, theo Phật giáo, tuy cũng gọi là làm lành, nhưng tên tính chất hoặc trình độ thì có sự khác nhau, tức là, nói thoe thuật-ngữ, có hữu-lậu-thiện và vô-lậu-thiện khác nhau. Những hành vi lấy chủ trương ý dục làm cơ sở, mong làm thỏa mãn mọi dục vọng dù không phải ở hiện thế mà ở vị lai cũng vậy, đó là hữ-lậu-thiện, còn những hành vi xả li mọi dục vọnghiện thế, tầm cầu niềm vui giải thoát vĩnh viễn tối cao là vô-lậu-thiện. Như vậy, tuy cũng tầm cầu hạnh phúc, nhưng đến hạnh phúc biến hóa hay không biến hóa, cảm giác hay ức chế tinh thần, thì về điểm thiện cũng có chỗ bất đồng. Khi định nghĩa chữ thiện, A-tỳ-đạt-ma đã thường suy nghĩ nhiều về ý nghĩa này, đó là điểm ta không thể bỏ qua. Chẳng hạn, Bà-sa quyển 51, khi định nghĩa thiện, ác, tuy có đưa ra nhiều thuyết, nhưng đại khái cũng bao hàm ý nghĩa trên. Như:

Hỏi: Thế nào gọi là thiện, bất thiện, và vô ký?

Ðáp: Những pháp khéo giữ gìn, có chiêu cảm quả tr thích, tính an ổn thì gọi là thiện. Khéo giữ gìn là tỏ Ðạo-đế, có thể chiêu cảm quả ưa thích là tổ Khổ, Tập-đế, tức Hữu-lậu-thiện, tính an ổn là tỏ Diệt-đế. Nếu pháp không khéo giữ gìn, có thể chiêu cảm quả không ưa thích, tính không an ổn, thì gọi là bất thiện. Tất cả đều tỏ Khổ, Tập-đế, tức mọi ác pháp. Nếu những pháp trái với hai loại trên đây gọi là vô-ký. Lại nữa, nếu những pháp có thể chiêu cảm quả khả ái, quả lạc thụ thì gọi là thiện, chiêu cảm quả không khả ái, quả khổ thì gọi là bất thiện, nếu ngược lại với hai loại trên đây thì gọi là vô-ký. Lại nữa, nếu các pháp có thể nảy sinh ra mầm mống khả ái, mầm mống giải thoát thì gọi là thiện, nếu nảy sinh mầm mống không khả ái thì gọi là bất thiện, ngược lại hai loại trên gọi là vô-ký. Lại nữa nếu các pháp có thể khiến cho sinh vào thiện-thú thì gọi là thiện, khiến sinh ác thú thì gọi là bất thiện, và ngược lại hai loại trên là vô-ký. Lại nữa, các pháp đọa Hoàn-diệt-phẩm, tính nhẹ nhàng, gọi là thiện, đọa Lưu-chuyển-phẩm, tính nặng nề, gọi là bất thiện, trái lại hai loại trên là vô-ký (Bà-sa quyển 51, Ðại-chính, 27, trang 263, thượng).

Tất cả định nghĩa về thiện, ác trên, bất luận laọi nào, cùg với hạnh-phúc ở luân-hồi-giới, đều hàm ngụ ý nghĩa hướng đến giải-thoát-giới. Mà cái quan hệ giữa hữu-lậu-thiện và vô-lậu-thiện này, đứng ở một phương diệnnhận xét, tuy thấy có trình độ cao, thấp khác nhau, nhưng, đứng ở một phương diện khác nhau mà nhận xét, thì tựa hồ lại có tính chất bất đồng. Như trên đã nói, nếu không chỉ dương hai điều đó thì không tránh khỏi nhận định có hai lớp bạo-đức-quan.

3- TÂM CĂN THIỆN ÁC.

Nhận xét theo những quan điểm ở trên, ta thấy đạo-đức-quan của Phật giáo rất giàu sắc thái công-lợi, do đó đặc biệt chú trọng ở kết quả của những hành vi. So với cái gọi là đạo đức tính của Khang-Ðức, tuy có vẻ chú trọng ở thích-pháp-tính, nhưng đây mới chỉ quan sát một mặt thôi[3], nếu đứng ở một phương diện khác mà khảo sát thì, như sẽ bàn đến sau, Phật-giáo chủ-trương động-cơ-luận, thay vì chú trọng ở hành vi bên ngoài lại chú trọng ở phương diện tâm-căn mà cổ giá thiện, ác: đó là điểm chúng ta cần ghi nhận. Như đã trình bày ở trên, Phật-giáo giải phẩu những tác-dụng tâm-lý của người ta, nên mới phân biệt thành ba tính. Nhất là gọi tự tinh thiện hay tự tính bất thiện thì chính ngay cái tâm-căn tự nó là thiện hoặc bất thiện rồi. Dĩ nhiên, về cách giải thích tâm căn tự tính thiện, tự tính bất thiện, cũng tùy theo người hay phái mà có sự bất đồng. Theo Ðại-tỳ-ba-sa quyển 51 thì tự tính thiện có thể là tâm, quý hay là vô-tham, vô-sân, vô-si, mà như ai cũng biết, các nhà chủ trương phân biệt luận cho trí (sự phán đoán chính xác) là tự-tính-thiện. Ngược lại với những đức tính trên, người ta đều cho vô tâm, vô quý hay tham, sân, si là tự-tính bất thiện. Tuy có ít nhiều ý kiến bất đồng, nhưng đều cho tâm-căn là căn bàn của hành vi đạo đức và phải tuỳ thuộc vào đó mà định giá trị thiện, ác: đó là điểm ta không thể bỏ qua (Bà-sa quyển 51, Ðại-chính, 17, trang 263, trung; Câu-xá quyển 13). Ðiều cần đặc biệt lưu ý là trong đó lấy tâm quý làm tự tính. Theo sự giải thích của A-tỳ-đạt-ma thì tâm hoặc có thể nói là tâm trọng đạo đức hay là tâm tự thấy hổ với mình; quý là tâm sợ tội ác, hay là tâm thẹn với người (Câu-xá quyển 3). Nếu nói theo ngôn ngữ ngày nay thì cách thuyết minh trên đây đại biểu cho quan niệm gần như lương-tâm. Lấy lương-tâm làm tự-tính-thiện, ngược lại là lương-tâm tự-tính-bất-thiện. Nhận xét theo quan điểm đó thì ta thấy đạo-đức-quan của A-tỳ-đạt-ma rốt cuộc lấy lương tâm làm nguyên lý của đạo đức và cho đây là một loại trực-quan-phái. Ðương nhiên, theo A-tỳ-đạt-ma thì do hành-vi tâm, quý đó mà chiêu cảm quả tự-lợi, lợi-tha; trái lại, hành-vi vô-tâm vô-quý chung cuộc sẽ mang lại quả ác. Theo ý nghĩa ấy, tuy vẫn quan hệ đến công-lợi, nhưng có thể nói đó là pháp tự nhiên nhi nhiên, đến như sự bình giá trị đạo đức thì đặc biệt chú trọng tâm căn tự thân. Nếu quên điểm đó mà định đoạt đạo-đức-quan của Tiểu-Thừa Phật-giáo là ở như chủ nghĩa công-lợi thì rất có thể biến thành một kiến luận sai lầm, đó là điều ta cần ghi nhận.

4- BỐN LOẠI THIỆN, ÁC.

Như vậy, tuy cũng nói là thiện, nhưng A-tỳ-đạt-ma một mặt hỗ-tương quan liên, mặt khác cũng theo một lập trường hơi đặc biệt muốn nghiêng về phương diện tâm lý để thuyết minh và tổng hợp thiện qua thuyết tứ sự bắt đầu biểu hiện trong luận Ðại-tỳ-ba-sa, tức là theo bốn phương diện để diễn tả quan-niệm-thiện, ác. Tứ sự là: 1- Tự tính, 2- Tương-ưng, 3- Ðẳng-khởi, 4- Thắng-nghĩa. Tựu trung, tự tính, tương ưngđẳng khởi chuyên nói theo lập trường tâm-lý-luận, còn thắng-nghĩa thì nói theo hạnh-phúc tối-cao. tự tính tức là tự tính của tâm căn thiện; tương ưngtác dụng tâm lấy tâm căn làm trung tâm để cùng hiện khởi; đẳng khởi là do tâm căn mà biểu hiện hoạt động của ý chí; thắng nghĩacảnh giới giải thoát Niết bàn. Nhưng đây mới chỉ nói một cách nhất ban thôi; nếu lại đi sâu hơn nữa thì những tác dụng tâm ấy như thế nào? Vấn đề này, như đã nói ở trên, có nhiều ý kiến khác nhau. Hãy thử kể đến những điểm chủ yếu. Vụ-tôn-giả nói: “Tự tính có nghĩa là tự-tính-thiện, hoặc bảo là tâm, quý hay là ba thiện căn. Tương ứng tức là tự tính tương ứng với các pháp tâm, tâm-sở. Ðẳng khởi là khởi thiện; tức là nó không tương ưng (bất tương ưng hành) với những cái do hai nghiệp thân, khẩu phát khởi. Thắng-nghĩa là thắng nghĩa thiện, tức là Niết-bàn an ổn nên gọi là thiện”. Song, các nhà phân biệt luận, đối với vấn đề này, lại hơi nghiên về phương diện chủ trí chủ nghĩa để giải thích. Theo họ, tự tính thiện chỉ cho trí, tức tính bất thiện chỉ cho vô tri, ngu si; tương ưng thiện, hoặc tương ưng bất thiện là chỉ cho thức (tâm tự thân không phải thiện, không phải ác); đẳng khởi thiện hay đẳng khởi ác, như vừa nói ở trên, là bất tương ưng hành; còn thắng-nghĩa-thiện là niết-bàn, thắng nghĩa bất thiệnsinh tử. Ý kiến của Hiếp-tôn-giả thuộc Hữu-Bộ cũng gần với ý kiến trên đây. Theo Hiếp-tôn-giả thì như lý tác ý (phán đoán chính xác) là tự tính thiện, phi lý tác ýtự tính bất thiện, những tác dụng tâm tương ứng và cùng khởi (đẳng khởi) với những tính trên là đẳng lưu quả của chúng, vì thế mỗi tác dụng đều được coi là thiện hoặc bất thiện. Ngoài ra, còn có cách giải thích lấy tam thiện căn (tam bất thiện căn), ngũ căn (ngũ cái) v.v… làm tự tính để thuyết minh tự tính tương ưng, đẳng khởi, thắng nghĩa v.v… nhưng sợ quá phiền tỏa, nên chỉ nói sơ lược như thế thôi. Theo sự thuyết minh này thì tự tính, tương ưng, đẳng khởi chuyên nói về hữu-lậu-thiện, như tự thể của lương tâm, căn cứ nơi lương tâm mà có được sự phán đoán chính xác, tóm lại, tâm căn là tự tinh của thiện ác. Nói theo thuật ngữ thì hoat động tâm lý lấy đẳng khởi quả mà khởi thiện ác, và bất luận lúc nào cũng đều sẽ chịu vận mệnh may (thiện) rủi (ác), tức lấy dị thục quả mà quy kết ở thiện, ác (điều này đã được nói đến trong Tập-dị-môn-túc-luận, và Bà-sa đã giải thích rõ. Bà-sa quyển 51, Ðại-chính, 27, trang 263, trung, hạ). Ðịnh nghĩa thiện, ác chuyên xuất phát từ lập trường may, rủi như thế thì ta thấy rốt cuộc không ngoài việc lấy dị thục quả làm trung tâm. Như, điểm thứ tư, tức thắng nghĩa, lấy sinh-tử Niết-bàn làm tiêu chuẩn, muốn từ cảnh địa tối cao thuyết minh thiện, bất thiệntinh thần của thuyết Tứ sự nói trên (Bà-sa, như trên, Câu-xá quyển 13).

5- VẤN ÐỀ TỰ DO Ý CHÍ.

Có thể nói A-tỳ-đạt-ma căn cứ vào chủ nghĩa tâm lý kinh nghiệmđịnh thiện, ác. Do đó, cũng như vấn đề đề tự do ý chí bên Tây phương. vấn đề luân lý trong Luân-lý-luận của A-tỳ-đạt-ma rất sôi nổi. Trên kinh nghiệm, người ta khí định làm một việc gì tất phải có sự tự do muốn làm hay không muốn làm. Vả lại, như đã được trình bày ở trên, đức Phật đã bài xích tất cả thần-ý-luận, Túc-tác-luận, Ngẫu-nhiên-luận mà thừa nhận hoạt động tự phát của ý chí hậu thiên, thường cho hữu ýtrách nhiệm đạo đức, bởi thế, các A-tỳ-đạt-ma luận sư lấy đó để giải quyết vấn đề để giải quyết vấn đề này tưởng cũng là lẽ tự nhiên, không có gì đặc biệt cả. Theo ý nghĩa ấy, ta có thể nói ý-chí-luận của A-tỳ-đạt-ma Phật giáo là tự-do luận thường thức. Song, nếu lại bước thêm một bước nữa mà khảo sát, do tính tích và khí chất của tiền nghiệp, ý chí của người ta tự do đến một trình độ nào thì dĩ nhiên, đây không phải vấn đề mà thường-thức-luận có thể định định được. tóm lại, có thể nói, phạm vi vấn đề đề đạo đức thừa nhận ý chí tự do là lẽ đương nhiên. Ðó là lý do tại sao lấy sự phân biệt thiện, ác và vô ký làm chủ rồi tuy đặt nặng ở tự thể tâm căn nhưng lại lấy hành vi đẳng khởithành lập sự phân biệt ba tính vậy.

6- CĂN CỨ CỦA TINH TIẾN ÐẠO ÐỨC.

Còn một vấn đề nữa, theo A-tỳ-đạt-ma thì tác dụng tâm của người ta có thiện, ác khác nhau, mà khuynh hướng tự nhiên lại thắng thế về phương diện ác. Tại sao con người phải nỗ lực hướng thiện là vấn đề cần được luận cứu. Sự tôn nghiêm của đạo đức không phải ở chỗ tiến theo tự nhiên mà là ở chỗ gắng sức tiến tới: đó là một trong những vấn đề đạo đức không thể không khảo sát tới. Theo chỗ tôi biết, trong A-tỳ-đạt-ma không đặt tinh tiến đạo đức thành vấn đề đặc biệt, bởi lẽ cứ xem hai mục lớn về định nghĩa thiện đã trình bày ở trên ta cũng thấy rất rõ ràng ngay từ đầu cái căn cứ tinh tiến đạo đức của A-tỳ-đạt-ma Phật-giáo rồi, mặc dầu về phương diện hình-nhi-thượng-học các bộ-phái thuyết minh tuy có nhiều điểm khác nhau, nhưng cái tinh thần nhất ban thì đại khái cũng tương đồng. Thứ nhất, là y vào sự sợ hãi lau6n hồi nghiệp báo, tức làm ác dù có được lợi trước mắt nhưng do quy tắc nghiệp báo, không bao lâu, chắc chắn sẽ phải trường kỳ thụ khổ, trái lại, nếu làm thiện thì dù trước mắt có phải thiệt thòi đi nữa, nhưng cuối cùng sẽ được sung sướng, bởi thế, nếu muốn được hạnh phúc lâu dài, bất luận trong hoàn cảnh nào, dủ khổ đến đâu đi nữa, đều nên cố gắng tránh ác hướng thiện. Ðối với học phái coi tự tính của thiện tâm là tâm quý (tức lương tâm) mà lấy đó làm trí hay như ý tác ý mà muốn giải thích ý nghĩa công lợi này, tức sự phán đoán về lợi, hại, đắc, thất vậy. Nếu nói theo giá trị đạo đức đó thì tuy rất thấp, nhưng, ngoài công lợi ra, người ta không thể tưởng niệm đến bất cứ việc gì khác, cho nên, đối với đa số người, nó biến thành căn cứ tinh tiến vĩ đại mà cũng là điểm trọng yếu nhất trong A-tỳ-đạt-ma. Thứ hai, từ lập trường này, xu hướng tới giải thoát là đạo trình tất nhiên. Tức lấy tự tâm làm cơ sở mà phát tâm chinh phục tội ácđiều kiện tất nhiên để đi đến giải thoát. Bởi vậy, nếu ai chí tâmgiải thoát thì tất phải lánh ác, hướng thiện. Bất cứ ai, nếu thức tỉnh lý tính, dốc chí giải thoátthực hiện ngay lý tính (trí tuệ) của chính mình, cho nên, làm lành chẳng qua cũng không ngoài việc qui định tự thể lý tính của chính mình. Dĩ nhiên, đây không phải ý kiến rõ ràng của tất cả học phái, nhưng cho tâm quý là tự tính thiện, tiến đến chủ trương thuyết tâm-tính-bản-tịnh, có thể nói, chính là muốn bày tỏ quan điểm trên. Ðến đây, luân lý quan kinh nghiệmcông lợi chủ nghĩa cuối cùng đã chuyển thành lý tưởng chủ nghĩa. Nhưng thật ra, ý nghĩa này chỉ ẩn tàng trong A-tỳ-đạt-ma thôi, chứ thật sự được thuyết minh rõ ràng thì phải đợi đến Ðại-Thừa sau này (A Buddhist Manual of Psychological Ethics pp. LXXXII – XCV cf).


[1] Thành-thật-luận quyển 8, phẩm Tam-nghiệ 100 nói: “Nếu người làm lợi mình lợi người, lợi đời này, lợi đời sau, đếu lấy thiện tâm làm gốc; nếu kẻ làm hại mình, hại người, hại đời này, hại đời sau, đều lấy bất-thiên-tâm làm gốc”.

[2] Thành-duy-thức-luận quyển 5 (Ðại-chính 31, trang 26, trung), nói: “Có thể làm cho đời này, đời khác thuận ích thì gọi là thiện. Lạc quả cõi nhân, coi Thiên, đối với đời này tuy có thể làm thuận ích nhưng không thuận ích cho đời khác thì không gọi là thiện. Làm cho đời này, đời khác tổn hại thì gọi là bất thiện. Quả báoác thú, tuy đối với đời này có thể làm vi tổn nhưng không vi tổn đối với đời khác thì không phải là bất thiện. Trong nghĩa thiện, bất thiện tổn, ích, không thể phân biệt rõ thì gọi là vô-ký”.

[3] “Ðạo-đức của A-tỳ-đạt-ma Phật-giáo có tính cách khoa-học, giống như đạo đức tiến-hóa-luận” – xem Mrs. Rhys Davids; A Buddhist Manual of Psychological Ethise Tựa p. LXXXVI.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29862)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27125)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21744)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22212)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23595)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20390)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20033)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21919)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24717)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18954)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24695)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30946)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23955)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27746)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26491)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21280)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23196)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38085)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18795)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18417)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19922)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19011)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23124)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23859)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22771)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22888)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29551)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20613)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18682)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15823)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18818)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19632)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20132)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19925)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18096)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22893)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34147)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16403)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16900)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39174)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26019)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20076)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18802)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24032)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29083)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22894)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30913)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20994)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26826)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20651)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26228)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23306)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19807)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24630)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 29973)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20196)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20387)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15126)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15814)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23843)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant