Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

5. Chùa tháp và sự thờ cúng

02 Tháng Ba 201100:00(Xem: 11114)
5. Chùa tháp và sự thờ cúng

TĂNG ĐỒ NHÀ PHẬT (HÁN VIỆT)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

CHÙA THÁP VÀ SỰ THỜ CÚNG

Chùa tháp là những nơi quan trọng, cần thiết trong đời sống chung của xã hội từ xưa đến nay. Chùa là nơi mà tăng chúng truyền giảng đạo lý và hóa độ cho hàng cư sĩ, khiến họ kính tín, quy y Tam bảo và sống cuộc sống chân chính của người Phật tử. Ngôi chùa cũng là nơi thực hiện các nghi lễ cúng kính quan trọng nhất của Phật giáo. Tháp là những nơi được dựng nên để cung kính thờ phụng các đức Phật, thường là được truyền nối từ đời này sang đời khác. Nhiều tháp Phật danh tiếng qua nhiều ngàn năm nay vẫn còn đứng vững.

Vào thời Phật tại thế, hình thức đầu tiên của chùa chiền chính là những khu tinh xá. Sau khi Phật thành đạo và đi khắp nơi giáo hóa, số đệ tử xuất gia theo ngài ngày càng đông hơn. Với những bậc trưởng lão đã đắc đạo, thực hiện đời sống khất thực không nhà, đêm ngủ nơi gốc cây, thì việc cất chùa là không cần thiết. Các vị chẳng tham luyến ở những nơi êm ấm, mà chỉ chuộng cuộc sống khất thực không nhà để có thể hóa độ khắp nơi. Nhưng với những người mới xuất gia, và số này rất đông, cần phải có một nơi để họ ở yên trong thời gian còn phải học hỏi. Chính tại nơi ấy, Phật mới có thể truyền dạy cho họ những kiến thức đầu tiên về cuộc sống tu hành, giúp họ có được những vốn liếng tinh thần tối thiểu để sau đó mới có thể tự mình vững bước trên đường đạo mà không sợ lầm đường lạc lối. Xét rõ nhu cầu ấy, vua Tần-bà-sa-la, một vị vua hết sức ủng hộ Phật pháp, đã cúng dường cho Phật và Giáo hội khu tinh xá Trúc Lâm ở gần kinh thành Vương-xá, trong ấy có đủ chỗ ở cho tất cả Giáo hội thời bấy giờ.

Về sau còn có một thương gia là ông trưởng giả Tu-đạt đã mua khu vườn của thái tử Kỳ-đà và xây dựng thành một khu tinh xá gọi tên là tinh xá Kỳ Viên, dâng cúng cho Phật và giáo hội để làm chỗ tu tậpgiáo hóa cho bá tánh trong thành Xá-vệ. Đó là những cảnh chùa xuất hiện sớm nhất trong lịch sử Phật giáo.

Về sau, việc xây dựng chùa chiền vẫn thường noi theo như trước. Người ta chọn những nơi thanh vắng, yên tĩnh, xa những tiếng ồn ào của thị tứ, và xây dựng đủ các phòng ốc cần thiết cho sinh hoạt của một tập thể tu tập. Trong đó phải có chánh điện thờ Phật, liêu phòng của vị trú trì, nhà bếp, nhà ăn, lại phải có chỗ để chư tăng phương xa ghé lại có thể nghỉ ngơi, kể cả chỗ nghỉ dành cho bá tánh nữa. Ngoài ra còn phải có giảng đường làm nơi thuyết pháp hoặc tụng đọc giới bổn, phòng cất giữ kinh sách... Cuối cùng là phải đảm bảo nơi vệ sinh công cộng, như nhà tắm, nhà tiêu...

Chùa ở miền Tây Tạng thường xây dựng rất to lớn, đồ sộ, bởi ở xứ ấy người ta mộ đạo Phật. Chẳng những đạo Phậtquốc giáo, mà ngày xưa những người cầm quyền chính trị trong nước cũng chính là một vị tăng. Chùa chiền ở Tây Tạng cũng là những trường học tổng hợp, dạy cho người ta đủ các môn khoa học như đạo đức, triết lý, thần học, chiêm tinh, y học, mỹ thuật...

Tuy là chọn những nơi yên tĩnh, nhưng chùa chiền thường cũng không xây dựng ở chỗ quá hẻo lánh. Khác với những am, cốc... là nơi chỉ chuyên dành cho các vị tăng sĩ muốn tập trung hết tinh thần vào việc tu tập; chùa chẳng những là nơi tu tập mà còn là nơi để truyền bá giáo lý nhà Phật, là chỗ dựa tinh thần cho bá tánh nhân dân. Vì vậy, chùa phải chọn nơi thuận tiện đường giao thông, hoặc ít ra cũng không quá khó đến. Lý tưởng nhất là chùa nằm cách khu dân cư không xa lắm để người dân có thể tìm đến bất cứ lúc nào, nhưng cũng không quá ồn ào ảnh hưởng đến việc tu tập của chư tăng. Ở những vùng có núi non, chùa thường được chọn cất trên núi nhưng có đường lên, để vừa yên tĩnh vừa có thể là nơi bá tánh tụ họp dễ dàng.

Nhiều nơi sẵn có địa thế thiên nhiên, người ta có thể sửa sang các hang động tự nhiên trong núi non lại đôi chút, cũng tạo thành được những ngôi chùa đẹp và thuận tiện cho chư tăng tu tập.

Dù là chùa ở nơi đất bằng, triền núi hay hang động, kiểu cách có phần nào khác nhau, nhưng cách bài biện, thờ phụng cũng đều có những nét chung như nhau. Vật dụng, giường ghế, hầu hết đều vừa phải với nhu cầu sử dụng, chủ yếu là cần có để dùng chứ không chạy theo sự phô trương, chưng diện. Nhất là các ngôi chùa ở chốn núi non, hang động thì lại càng đơn sơ hơn hết.

Trong Phật giáo, sự thờ cúng cung kính nhất là xá-lỵ Phật. Đó là những tro cốt còn lại sau khi người ta làm lễ thiêu xác Phật. Những xá-lỵ ấy được thờ kính như Phật còn tại thế. Người ta mong muốn được thờ cúng những xá-lỵ của Phật, vì họ tôn kính Phật và giáo pháp của ngài. Khi ngài nhập diệt, người ta nghĩ rằng chỉ còn có cách ấy để được gần gũi Phật. Vì thế, sau khi Phật nhập diệt, các vị vua chúa đương thời đã mang cả quân binh đến để giành lấy xá-lỵ Phật. Cũng may là vẫn còn các vị đệ tử lớn, khéo đem giáo pháp của Phật ra mà khuyên dạy họ, khiến cho hết thảy đều hòa hoãn mà phân chia nhau, không đến nỗi xảy ra cuộc đao binh.

Ngoài xá-lỵ Phật, người ta cũng giữ lại những vật dụng mà Phật đã dùng để thờ kính. Nhưng chỉ có xá-lỵ Phật là tồn tại lâu dài, còn những vật dụng khác đều hư nát theo thời gian, đến nay không còn nữa. Tuy nhiên, có những nơi Phật đã đi qua trên đường giáo hóa, vẫn còn để lại nhiều dấu tích. Những nơi ấy đều được xây dựng thành chùa lớn để thờ cúng và làm chỗ cho thập phương tín đồ về chiêm ngưỡng.

Có những nơi mà tín đồ Phật giáo khắp nơi trên thế giới đều mong muốn được có một lần đến lễ bái, chiêm ngưỡng. Đó là bốn thánh địaliên quan chặt chẽ đến cuộc đời đức Phật. Một là vườn Lam-tỳ-ni, nơi Phật đản sanh. Hai là cây bồ-đề nơi Phật thành đạo ở xứ Già-da. Ba là vườn Lộc, thường gọi là Lộc uyển ở xứ Ba-la-nại, nơi Phật thuyết pháp lần đầu tiên, gọi là Chuyển pháp luân. Bốn là chỗ hai cây sa-la xứ Câu-thi-na, nơi Phật nhập diệt. Bốn thánh tích ấy từ bao đời qua vẫn được giữ gìn cẩn thận và là nơi chiêm ngưỡng cho hàng triệu tín đồ Phật giáo ở khắp nơi trên thế giới. Chính như ngài Huyền Trang ở Trung Hoa khi sang Ấn Độ thỉnh kinh cũng có kể lại việc đến chiêm ngưỡng các thánh tích ấy.

Tuy vậy, nhìn chung thì rất ít người có đủ may mắn để được đến lễ Phật trước nơi thờ xá-lỵ Phật, hoặc những nơi thánh tích. Vì vậy, người ta phải tạo ra những hình tượng của Phật để thờ cúng. Hình tượng của Phật tuy là do nơi một gốc mà ra, nhưng ở mỗi xứ sở khác nhau đều có cách thể hiện riêng của mình. Một mặt là do nơi nghệ thuật điêu khắc, tô vẽ ở nơi đó. Mặt khác, cũng phụ thuộc vào cách hiểu, cách suy nghĩ của con người ở đó về Phật pháp. Bởi vậy, ta không nên lấy làm lạ khi thấy pho tượng Phật ở Thái Lan không hoàn toàn giống với tượng PhậtTrung Quốc, lại càng không giống với Nhật Bản hay Triều Tiên. Nhưng những nét chính thì quả thật vẫn rất dễ nhận ra.

Ở các chùa, tượng Phật chính được thờ là tượng Phật tổ Thích-ca. Theo Nam tông, người ta chỉ thờ độc tôn, nghĩa là riêng một tượng đức Thích-ca trên chánh điện mà thôi. Đối với Bắc tông, người ta tin rằng Phật có rất nhiều hóa thân, mà hết thảy đều không ngoài ý nghĩa giác ngộ viên dung. Vì vậy, có thể tùy theo hoàn cảnh, ý nghĩa mà sự cung kính cũng có những đối tượng khác nhau. Do đó, ngoài tượng Phật Thích-ca, trong chùa còn thờ nhiều tượng khác như Phật Di-lặc, Phật A-di-đà, Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Địa Tạng ...

Cũng vậy, ở nhà riêng của hàng cư sĩ, người ta không chỉ thờ riêng là đức Phật tổ Thích-ca. Người ta còn có thể thờ các vị Phật và Bồ Tát khác nữa. Tuy nhiên, khác với ở chùa, có thể đồng thời thờ rất nhiều hình tượng, ở nhà riêng thì người ta thường chỉ chọn thờ một trong các hình tượng phù hợp với sở nguyện của mình mà thôi.

Phần đông cư sĩ tại gia mong cầu sự bình an trong gia đình là chính. Vì thế, đa số gia đình chọn thờ tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Đây là vị Bồ Táthạnh nguyện cứu khổ ban vui cho hết thảy chúng sanh, chỉ cần ai xưng niệm danh hiệu của ngài, là ngài sẽ quán xét theo âm thanh đó mà đến cứu khổ cứu nạn cho. Chính vì vậy mà ngài lấy hiệu là Quán Thế Âm. Hạnh nguyện của vị Bồ Tát này được Phật nói rõ trong phẩm Phổ Môn, thuộc bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa.

Cũng có một số cư sĩ tại gia thờ tượng Phật tổ Thích-ca. Một số tu theo pháp môn Tịnh Độ thì thờ tượng Phật A-di-đà, hoặc Bồ Tát Địa Tạng.

Việc thờ Phật ở nhà riêng thường kết hợp với bàn thờ tổ tiên, theo cách bố trí là thờ Phật trên cao và thờ ông bà tổ tiên dưới bàn thấp hơn. Tuy nhiên, nhất thiết phải có hai lư cắm hương riêng biệt.

Hình thức thờ Phật ở nhà riêng ngày nay phổ biến khá rộng rãi. Điều đó rất có lợi cho việc truyền bá giáo pháp của Phật, vì những cư sĩthờ Phật ở nhà thường mời thỉnh các vị tăng sĩ đến nhà để tụng kinh hộ niệm, hoặc cầu an, hoặc cầu siêu, trong những khi gia đình hữu sự. Nhất là việc tụng kinh A-di-đà vào những ngày kỵ giỗ ông bà tổ tiên là điều rất tốt, vì nhân đó mà người ta thường cúng chay, hạn chế được sự sát sanh. Những dịp được mời đến nhà cư sĩ để tụng kinh là những dịp tốt để chư tăng truyền dạy Phật pháp cho hàng cư sĩ, đồng thời trừ phá những sự mê tín dị đoan, tà kiến trong chốn dân gian. Và quan trọng hơn hết là làm cho hàng cư sĩ hiểu rõ được ý nghĩa đúng đắn của việc thờ Phật.

Thờ Phật ở nhà là sự nhắc nhở hàng ngày để người cư sĩ không quên lời Phật dạy, luôn cố gắng giữ tròn Năm giới mà mình đã thọ nhận, cũng như giao tiếp, ứng xử trong cuộc sống phải giữ cho phù hợp với lời Phật dạy. Tuy nhiên, cũng có không ít cư sĩ không hiểu được ý nghĩa chân chính này, xem việc thờ Phật như để cầu xin được ban phước tránh họa, hoặc có thể giúp mình có nhiều may mắn hơn trong cuộc sống. Cách hiểu này không phù hợp với lý nhân quả của nhà Phật, khiến cho người ta thường trở nên tiêu cực, thụ động, quên mất rằng những việc tốt xấu trong đời hết thảy đều do nơi nghiệp nhân mà mình đã tạo ra dẫn đến.

Đạo Phật truyền vào nước ta từ rất sớm. Cho đến những năm đầu của thế kỷ 11, đạo Phật đã trở thành quốc giáo. Từ đó về sau, từ vua chúa cho đến quan thuộc cũng đều hết lòng ủng hộ Phật pháp, thậm chí có nhiều vị vua về cuối đời cũng chính thức xuất gia. Vì vậy, đạo Phật đã hình thành và phát triển khắp mọi miền đất nước, từ thành thị đến nông thôn. Việc thờ cúngtin theo Phật đã trở nên quen thuộc ở khắp nơi, đâu đâu cũng có.

Tuy nhiên, Phật giáo không chuộng ở số lượng mà chủ yếu xem trọng hiệu quả thực tiễn của việc truyền dạy giáo pháp. Vì vậy, việc giảng giải ý nghĩa chân chính của việc thờ cúng cho hàng cư sĩ được rõ hiện nay vẫn còn là một trách nhiệm quan trọng, nặng nề nhất của các vị tăng sĩ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15707)
Đại Chánh Tân Tu số 0018 - Hán dịch: Ðại Sư Pháp Hiền (đời Tống), Việt Dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16401)
Giới là nguồn cội của hết thảy Thiện pháp, là nền tảng của Tam vô lậu học và mọi quả vị Giải thoát... Nguyên tác: Lý Viên Tịnh; Thích Giác Quả dịch
(Xem: 23626)
Tại Gia Bồ Tát Giới Bổn - 3 ngôn ngữ Anh, Việt, Hoa - Nhiều Tác Giả
(Xem: 17518)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 81360)
Kinh Nhật Tụng - Kinh Tụng Hằng Ngày
(Xem: 19620)
Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni - Đời Đường, nước Kế Tân, Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly vâng chiếu dịch, Việt dịch: Sa-môn Thích Thiện Thông.
(Xem: 20275)
Kiền Long Đại Tạng Kinh bao gồm 168 tập, chứa đựng 1669 bộ Kinh văn... Tổng hợp Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 47473)
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
(Xem: 39241)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15850)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thểhiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
(Xem: 23265)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 19307)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 15219)
Kinh Hạnh Nguyện Phổ Hiền - Tam Tạng pháp sư Bát Nhã, người nước Kế-tân, dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào đời Đường; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 16828)
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
(Xem: 13102)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 13164)
Đây là những điều tôi nghe Bụt nói vào một thời mà người còn lưu trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ Đà. Hôm ấy, cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị cư sĩ khác đã tìm đến nơi cư ngụ của thầy Xá Lợi Phất.
(Xem: 49050)
Trong khế kinh, Đức Phật nói. "Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật"... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 23367)
Giới luậtsinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai sứ, hành Như lai sự... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 19453)
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
(Xem: 17198)
Luật Học Tinh Yếu - Muốn qua sông phải nhờ thuyền bè, muốn vượt bể khổ sinh tử phải nương nhờ Giới pháp... HT Thích Phước Sơn
(Xem: 32174)
Cúi đầu lễ chư Phật, Tôn Pháp, Tỳ-kheo Tăng, Nay diễn pháp Tỳ-ni, Để Chánh pháp trường tồn... HT Thích Trí Thủ dịch
(Xem: 27502)
Luật Tứ Phần - Việt dịch: HT Thích Đổng Minh; Hiệu chính và chú thích: Thích Nguyên Chứng, Thích Đức Thắng
(Xem: 14351)
Du Già Sư Địa Luận Thích - Trước tác: Bồ Tát Tối Thắng Tử; Hán dịch: Tam-Tạng Pháp Sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích Tâm Châu
(Xem: 14820)
Pháp Hoa Tông Yếu, Thứ tự kinh văn số 1725 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh do Ngài Nguyên Hiểu sọan chữ Hán, Sa Môn Thích Như Điển dịch.
(Xem: 18656)
Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa xuất bản hôm nay không có một liên quan nào, về mọi phương diện, với những bộ Kinh danh đề tương tựchúng ta thấy trong Đại tạng... Chánh Trí Mai Thọ Truyền
(Xem: 16449)
Tỳ Kheo Huệ Chiểu chùa Đại Vân ở Chuy Châu sọan, Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013
(Xem: 13948)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, thuộc Luận Tập bộ toàn. Thứ tự kinh văn số 1663 (562-563)... HT Thích Như Điển
(Xem: 17310)
Tác Giả: Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư; Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 19418)
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú - Do HT Thích Như Điển dịch Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 28080)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 14422)
Toàn thể đại dụng, thu nhiếp xưa nay ngay trên đường; dứt trí tuyệt ngu, vật và ta ngang bằng nơi kiếp ngoại ... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 16974)
Luận về Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa - Phiên dịch, chú giải: Daniel B. Stevenson & Hiroshi Kanno - Phiên dịch, thi hóa: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
(Xem: 22212)
Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ, bao gồm nghĩa lý thâm thiết để cởi mở nghiệp khổ cho chúng sanh... HT Thích Thiện Siêu dịch
(Xem: 23352)
Thiện nam tử! Có một loại pháp Bồ tát nên diệt trừ. Ðó là pháp tham. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn.
(Xem: 28059)
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
(Xem: 64903)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 33279)
Thế Tôn, nếu con nghĩ rằng con đắc đạo A La Hán, thì Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là một hành giả thanh tịnh hạnh. Vì Tu Bồ Đề vốn là vô sở hành...
(Xem: 40229)
Tam thế chư Phật, chư Đại-Bồ-tát, thật chứng và nhập một với Pháp-giới-tính nên phát-khởi vô-duyên đại-từ, đồng-thể đại-bi, hiện ra vô số thân, theo duyên hóa-độ vô-lượng vô-biên chúng-sinh...
(Xem: 25165)
Luật nghi của Đức Thế Tôn chế định vì bảo hộ Tăng-già, thanh qui của Tùng Lâm đặt định để thành tựu pháp khí cho già lam, pháp thức hành trì cho cư gia phật tử để xây nền thiện pháp...
(Xem: 50288)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 38600)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 27368)
Kinh Trường Bộ thi hóa (3 tập) - Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli - Chuyển thể Thơ: Giới Lạc Mai Lạc Hồng
(Xem: 28628)
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
(Xem: 52288)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 35935)
Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục - Liêu Nguyên dịch, Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 32943)
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
(Xem: 50897)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 74960)
Kinh chữ Hán - ĐĐ. Thích Hạnh Phú sưu tầm & biên soạn
(Xem: 36188)
Sắc là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán.
(Xem: 49039)
Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp. Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
(Xem: 31054)
Nếu dùng hình sắc để thấy ta, Dùng âm thanh để cầu ta, Người nầy hành tà đạo, Chẳng thể thấy Như Lai... HT Thích Như Điển
(Xem: 33992)
Kinh Bại Vong (Parabhava-sutta) rút từ Tập Kinh (Suttanipata), kệ số 91-115, trang 18-20, Pali Text Society... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 28954)
Trải qua nửa thế kỷ thuyết pháp độ sinh, Ðức Ðạo sư đã hóa độ đủ mọi hạng người, không phân biệt màu da, chủng tộc, giai cấp, sang hèn... Thích Phước Sơn
(Xem: 58882)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 46318)
“Ðức Thế Tôn nghe Phạm vương ba lần ân cần thưa thỉnh, liền dùng Phật nhãn soi khắp thế giới chúng sanh, thấy sự ô nhiễm của chúng sanh có dày có mỏng...
(Xem: 43862)
Khi Đức Phật nói danh hiệu chư Phật đời quá khứ, có mười ngàn Bồ Tát, được Vô sinh nhẫn, tám trăm Thanh Văn, phát thiểu phận tâm, năm ngàn Tỷ khưu...
(Xem: 43256)
Kinh vừa là Kinh Phật, lại vừa là miệng Phật. Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã...
(Xem: 45984)
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng...
(Xem: 48066)
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Trọn bộ 11 tập - 600 cuốn; Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Nghiêm
(Xem: 63788)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant