Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiên Thứ VI: Tu Đạo Luận

01 Tháng Mười 201000:00(Xem: 11976)
Thiên Thứ VI: Tu Đạo Luận


Thiên Thứ VI: Tu Đạo Luận

CHƯƠNG I

ĐỘNG CƠ TU ĐẠO VỚI TU ĐẠO PHÁP NHẤT BAN

1- ĐỘNG CƠ TU HÀNH VỚI KHỔ QUAN.

Trở lên là tiếp theo tâm lý luận để trình bày một cách đại yếu về luận lý quan của A-tỳ-đạt-ma. Song, những điểm được trình bày trong chương cuối cùng thứ tư, cứ theo A-tỳ-đạt-ma, thì luân lý chủ yếu là thuộc phạm vi luân hồi, tuy có phân biệt thiện nghiệp sinh thiện thú, ác nghiệp sinh ác thú, nhưng tất cả chỉ là biến dị hữu lậu. Cho dù thiện nghiệp được luôn luôn kế tục nhưng phần kết quả thu lượm được vẫn dao động chứ không thể là cứu kính an định. Vả lại, hữu tình thường lấy ngã dục làm trung tâm, cho nên, có khi vì không biết, có khi vì tham dục, sân huệ mà ác nghiệp; và trường hợp đó xảy ra rất thường, bởi vậy mà kết quả thụ hưởng ra sao cũng có thể thấy rõ rồi. Như vậy, nhận thấy tầm mắt thấy xa thì tất cả mọi sự trong thế gian này đều không an định, nói một cách tóm tắt, tất cả đều là khổ. Cái chứng cứ lớn nhất của Khổ quan là: vì cũng là một hiện tượng thiên nhiên nên, con người, mật mặt tuy phải phục tòng định luật tất nhiên của vận mệnh, nhưng, mặt khác, vì cũng là một sự tồn tại tinh thần nên lại có yêu cầu tự do vô hạn. Đó là sự mâu thuẩn bất tương dung và vì phải sống trong thế giằng co ấy mà con người cảm thấy đau khổ: điều này tôi đã thường trình bày qua. Đức Phật cho tất cả đều là khổ, cái lý do chính cũng ở đó. Song, cái cảm thống khổ đau ấy cũng lại là động cơ thúc đẩy con người tìm đến sự giải thoát trong tôn giáo. Đức Phật chủ trương đời là bể khổ chính là vì cái thực tướng này của thế gian. Do đó, chủ trương này, về sau đã trở thành một đặc trưng về nhân sinh quan Phật giáo thông cả Tiểu thừaĐại thừa. Nhưng làm thế nào để giải thoát khỏi khổ? Cũng như các vấn đề khác trong Phật giáo, vấn đề này một khi được đặt ra thì cũng lại có nhiều nghị luận bất đồng. đạo Đại thừa Bồ tát chẳng hạn, xác lập lý tưởng vĩnh viễn, lấy tất cả hoạt động tự phát mà định giá trị của lý tưởng đó, do vậy khổ cũng được coi như thứ hồi hướng tới đại lý tưởng ấy. Trong Tiểu thừa Phật giáo con đường giải thoát khổ có tính cách tiêu cực, trên thực tế, làm cách nào để có thể đạt đến thế giới hết khổ đau? Đây chính là vấn đề chủ yếu. Như ai nấy đều biết, A-tỳ-đạt-ma y theo giải thích bình diện, ở nhiều trường hợp, nói rõ nguyên nhân của thế giới khổ đau chính là đã phê phán giá trị của thế giới vậy. Đời là khổ, và chính đó là động cơ tu đạo. A-tỳ-đạt-ma đã thuyết minh khổ như thế nào? Trong các kinh có nhiều cách thuyết minh về khổ, và để thích ứng, A-tỳ-đạt-ma đối với khổ, cũng có nhiều thuyết minh. Nhưng nếu nói một cách tóm tắt thì cái phương pháp xử lý phổ thông là đem định nghĩa khổ chia ra làm nhiều loại. Chiếu theo Khế kinh thì định bình của khổ có tám, đó là sống khổ, già khổ, chết khổ, cầu thương khổ, lo buồn khổ, oán ghét mà gặp gỡ là khổ, yêu thương mà chia lìa là khổ, tất cả sự cầu mong không thỏa mãn là khổ (Vism, p. 498). Lại nói một cách đơn giản là: tất cả vô thường là khổ, tất cả khổ là vô ngã, “biết các hành vô thường, đều là pháp biến dị, bởi thế nói thụ tất cả khổ, đó là điều người chính giác đã biết rõ” (Tạp-a-hàm quyển 17, Đại chính, 2, trang 121, cột trên). Vì vô thường nên khổ, khổ vì vô ngã. A-tỳ-đạt-ma tuy thuyết minh nhiều về những nỗi khổ đó, nhưng dần dần đã đem thống nhất và, cuối cùng, còn muốn tập hợp lại nữa. Về định nghĩa của khổ, Phật Âm nói:

Khổ tướng là sự buồn bực liên miên và là hình của sự buồn bực liên miên đó (Vism, p. 640).

Lại có bốn trạng thái: 1- Trạng thái buồn bực, 2- Trạng thái vô thường (hành), 3- Trạng thái thiêu đốt, 4- Trạng thái biến hoại (ibid p. 494). Trạng thái một và trạng thái ba là bản thân của khổ đau, còn trạng thái hai và trạng thái bốn, đại khái trong nhất thời không là khổ đau nhưng cuối cùng lại quy về khổ. Về pía Bắc truyền thông lệ chia khổ thành ba loại[1], tức là khổ lhổ, hành khổhoại khổ (Câu xá, quyển 22). Khổ khổ là tự thân của khổ; hành khổ là sự vô thường, bất an nên khổ; hoại khổ là vì những khoái lạc hiện tại cuối cùng cũng có lúc tiêu tan nên khổ (có thể so sánh với ba khổ của Số luậny nội khổ, y ngoại khổ, y hành khổ - Sáu Phái Triết Học Ấn Độ trang 7). Tựu trung, hai loại sau này là đặc trưng của nhân sinh Phật giáo, tức cuộc sống của con người, dù là hữu lậu, về mặt cảm giác, cho dù không thấy khổ, nhưng vì vô thường biến hoại, thiếu mất tính bất biến thường hằng, cho nên, về điểm này, có thể nói tất cả ở thế gian đều là khổ.

Từ nhân sinh quan đó, vấn đề tất nhiên phải được đặt ra là: làm thế nào để có thể đạt đến cảnh giới triệt để giải thoátrốt ráo yên ổn? Đây là đề mục tối cao của Phật giáo. Tập hợp và hiển bày một cách đơn giản khóa để này là Bốn Đế: khổ, tập, diệt, đạo. Cội nguồn thống khổ của kiếp người lấy bất tuyệt dục làm cơ sở, vì y vào phiền não, bởi thế, muốn hết khổ phải diệt phiền não thì phải tu đạo: đó là căn cứ của Tu đạo luận.

2- NHỮNG ĐỨC MỤC TU ĐẠO.

Nhưng cái đạo diệt phiền não ấy là gì? Nói theo Tứ đế luận thì phổ thôngBát chính đạo, tuy đưa ra tám đức mục, nhưng dần tiến đến A-tỳ-đạt-ma thì một mặt nói Bát chính đạo, mặt khác, trên Bát chính đạo, như Tứ niệm xứ, Bát chính đoạn, Tứ thần túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, lại đưa ra cái gọi là bảy khoa ba mươi bảy đạo phẩm làm thông lệ. Ngoài Bát chính, sáu khoa kia, về ý nghĩa, đứng ngang hang với Bát chính, nếu nói một cách thực tế, thì bảy khoa là những đức mục chỉ khác nhau về lập trường chứ không phải bất đồng về tính chất. Kỳ thực, những đức mục tu đạo trong Khế kinh không hạn định trong bảy khoa, mà ngoài ra còn có mười niệm, mười tưởng, bốn thiền, bốn vô lượng, bốn vô sắc v.v… do đó không thể đưa ra con số nhất định được. Do những đức mục đó không phải bất đồng trên tính chất, nên yêu cầu giải thoát không nhất định phải tu theo tất cả pháp môn. Cứ theo Phật giáo nguyên thủy thì tuy chuyên tu một pháp môn nào đó, nhưng vì thời cơtình thế có khác, nên, theo ý nghĩa “tùy bệnh cho thuốc”, đức Phật đã chỉ bày nhiều phương thức. Như đã trình bày ở trên, đặt chất của bộ phái Phật giáo là, thay vì lấy thế gian pháp làm chủ, lại đặt ra trong tâm cái gọi là xuất thế gian pháp (giải thoát pháp) và, để thích ứng đức mục tu đạo là đối tượng là các A-tỳ-đạt-ma luận sư đã tận lực luận cứu, chỉnh lý và phân loại. Nhất là A-tỳ-đạt-ma ở thời kỳ, như tôi đã trình bày trước, chuyên lấy việc giải thích các đức mục tu hành làm đề mục chủ yếu. Thế rồi, đến A-tỳ-đạt-ma tiến bộ, ngoài Tu đạo luận ra, đối với việc thuyết minh thế giới sự thực, tuy có tăng gia nhiều, nhưng cái phương pháp của Tu đạo luận dần dần đã trở nên tinh tế, và nhiếp thủ toàn bộ các đức mục phối hợp chúng với quá trình tiến triển trong việc tu đạo, để muốn chỉnh lý chúng theo thuận tự: đó là một đặc trưng lớn của thời kỳ tiến bộ này. Bởi thế, trong các kinh, luận cổ, những đức mục được coi là trọng yếu cũng chỉ được thuyết minh một cách giản dị, đơn thuần; trái lại, trong các kinh, luận mới,tuy được chỉnh lý nhiều, nhưng thuyết minh về tu đạo, so với thời đại Phật giáo nguyên thủy, phức tạp hơn nhiều, và, nói theo một ý nghĩa nào đó, đã xa rời thực tế: đây là một sự thật hiển nhiên. Để thích ứng với tín ngưỡng, ở thời đại Phật giáo nguyên thủy, quả A-la-hán không phải khó khăn để đạt được, nhưng một khi đã được A-tỳ-đạt-ma chỉnh lý thì nó biến thành quả vị tối cao, người thường khó mà đạt được. Do sự tiến bộ về học vấn mà Tiểu thừa Phật giáo thật đã mất hẳn cái hương vị tôn giáo. Nếu nhận xét điều này về phương diện thần học, thì các phiền não, đạo diệt phiền não, và những cảnh giới nhờ đó mà đạt được, tất cả Tiểu thừa đều muốn chỉnh lý cho có trật tự hẳn hoi: đây là điểm rất lý thú mà ta không thể bỏ qua.

3- TƯ CÁCH TU ĐẠO.

Về Tu đạo luận vẫn còn đề mục nữa không thể không bàn đến, đó là người ta phải có tư cách như thế nào để thích ứng với việc tu đạo? Về luân lý đạo đức được trình bày trong thiên trước thì người ta, bất luận ai cũng đều nên theo, nhưng về tu đạo, nếu nói theo nghĩa hẹp, thì so với luân lý, phạm vi của nó còn hẹp hơn, và tính chất của nó không thích dụng. Điều này, chiếu theo các giáo phái Bà-la-môn thì người tua đạo thích hợp đại khái chỉ hạn cục trong ba giai cấp trên mà thôi (tham chiếu kinh Phệ Đàn Đa, mục nói về tư cách; trong phái Số luận, tuy lấy ba giai cấp trên làm chủ, nhưng cũng có khi chấp nhận cả giai cấp thứ tư). Nhưng Phật giáo chủ trương bốn giai cấp đều thanh tịnh, vì đặc chất ấy cho nên đến Phật giáo Bộ phái, đối với bốn giai cấp, tự nhiên đã không đặt ra mật hạn chế nào cả. Về nam nữ tính thì Phật giáo nguyên thủy đã thừa nhận có sự tu đạo thích hợp cho cả nam nữ, và cũng có khả năng tính đạt được giải thoát, mà trên thực tế, nữ tính đắc quả cũng không phải ít. Bởi thế, đến Phật giáo Bộ phái đối với vấn đề này cũng không có dấu hiệu đã đặt ra hạn chế hay sự khu biệt đặt biệt nào. Duy có vấn đề là sự khu biệt giữa tại giaxuất gia; tức muốn tu đạo phải xuất gia hay ở tại gia cũng có thể? Vấn đề này, chiếu theo Phật giáo nguyên thủy, đức Phật bảo là tuy ở tại gia nhưng nếu tâm nay thẳng, dốc lòng tu đạo thì tại gia cũng có thể tới giải thoát, nhất là Ưu bà tắc, Ưu bà di, trong bốn quả, đức Phật nhận là có thể đạt được quả thứ ba, điều này tôi đã trình bày qua rồi (Nguyên Thủy Phật Giáo Tư tưởng Luận). Song, sự tu dưỡng triệt để, muốn được giải thoát thật sự ngay trong hiện tại, thì công năng xuất gia lớn hơn công năng tại gia, đây cũng là một sự thật rõ rệt (như trong Trung a hàm quyển 31, Lại-tra-hòa-la-kinh, và Trung a hàm quyển 8, sa-kê-đế-tam-tộc-tính kinh v.v…). Nhưng thuyết này, đến Phật giáo Bộ phái thừa kế như thế nào? Nói một cách đại thể thì đến Phật giáo Bộ phái, thuyết này tuy cũng giống nhau, nhưng về phương diện tinh thần thì có điểm rất bất đồng. Phật giáo nguyên thủy tuy tưởng lệ xuất gia, nhưng cũng rất chú trọng đến sinh hoạt luân lý tại gia, đến Phật giáo Bộ phái thì, cứ theo A-tỳ-đạt-ma lại coi thường phương diện luân lý tại gia mà chuyên đề cao pháp tu dưỡng xuất gia và kết quả, đó là sự thật không thể chối cãi (Thành-thật-luận 17, Ác giác phẩm 182, bảo hành giả ngoài việc không được khởi dục niệm, tâm sân khuể và tâm não hại, còn đưa ra thân lý giác (tâm lo cho nước), quốc độ giác (tâm muốn đi du lịch các nơi), bất tử giác, lợi tha tâm và khinh tha tâm v.v… Tựu trung, bất tử giác, là trước hết đọc tụng năm tạng là tam tạng, tạp tạngBồ tát tạng rồi mớinghiên cứu ngoại điển, nuôi dưỡng đệ tửgiáo hóa chúng nhân, tu đạo dần dần như thế. Đây là sự ngộ nhận về trước, sau). Nền thần học của A-tỳ-đạt-ma thật vô cùng phiền tỏa, nhận xuất gia là do nhà chuyên môn mà phát đạt. Tóm lại, theo ý nghĩa ấy, người chính đầy đủ tư cách tu dưỡng là người xuất gia, tại gia nhờ tôn kính cúng dàng xuất gia mà được tham dự phần phúc đức, đó là tư cách phổ thông, còn người tại gia nào dốc lòng tu dưỡng theo đạo xuất gia thì điều đó không ai cấm. Do đó, song song với sự hưng thịnh của Phật giáo Tiểu thừa, sự xuất gia cũng phát đạt rất nhiều, đến đây người ta không lấy làm lạ tại sao có nhiều người xuất gia. Ở thời đại đức Phật, vì Phật giáo hưng thịnh nên có đủ loại động cơ xuất gia, bởi thế đức Phật đã phải phân biệt thành nhiều thứ. Như trong Trường-a-hàm quyển 3, Du hành kinh, trong phần Phật dạy Chân Na, có nói đến bốn loại xuất gia: 1- Hành đạo thù thắng, 2- Thiện quyết đạo nghĩa, 3- Y đạo sinh hoạt, 4- Vị đạo tác uế (Đại chính, 1, trang 18, trung)[2]. Tựu trung, hành đạo thù thắng nghĩa là đạo hạnh hơn người; thiện quyết đạo nghĩa, là đối với giáo nghĩa của Phật giáo có tài tuyên thuyết khéo léo, y đạo sinh hoạt là đạo hạnh tuy không thù thắng, thuyết pháp tuy không khéo léo, nhưng dù sao vẫn giữ được nếp sống người xuất gia; còn vị đạo tác uế là những Tỷ khưu phá giới[3]. Lại Thập tụng luật quyển 1 (Đại chính, 23, trang 2, thượng), cũng đưa ra bốn loại Tỷ khưu: 1- Danh tự Tỷ khưu, 2- Tự ngôn Tỷ khưu, 3- Vị khất Tỷ khưu, 4- Phá phiền não Tỷ khưu (Câu xá, quyển 15 trích dụng). Tựu trung, Danh tự Tỷ khưu nghĩa là tuy xưng danh là Tỷ khưu nhưng thật ra là thế tục; Tự ngộn Tỷ khưu nghĩa là người tự xưng là Tỷ khưu; Vị khất Tỷ khưu, chiếu theo nghĩa đen là người ăn xin, tức những người hành khất; Phá phiền não Tỷ khưu là những người Tỷ khưu chân chính. Tỷ khưu của Phật giáo phải là hạng thứ tư này: chính sự phân loại trên đã bao hàm ý nghĩa ấy. Ở thời đại Phật giáo nguyên thủy, về mặt đạo hạnh, đã cần phải có sự khu biệt như thế rồi, bởi thế, đến thời đại Phật giáo Bộ phái vốn chủ nghĩa hóa và hình thức hóa đạo xuất gia, thì dĩ nhiên,trên thự tế đã chia ra nhiều loại Tỷ khưu. Do đó, A-tỳ-đạt-ma luận thư lấy đó làm một trong nhiều vấn đề cũng là lẽ tự nhiên vậy. Như các nhân phẩm được nói đến trong các A-tỳ-đạt-ma luận thư (chẳng hạn, Nhân phẩm trong Xá-lợi-phất-a-tỳ-đàm luận, quyển 7), tuy chưa hẳn chỉ là những người xuất gia, nhưng dù sao cũng lấy trình độ tu hành của những người xuất gia làm trung tâm mà phân loại căn cơ hay tính chất của họ để hiển bày tiến trình đưa đến địa vị cao tột.

Như vậy, đến thời đại Phật giáo Bộ phái, ít ra là trên hình thức, đã trở thành chủ nghĩa xuất gia, mà những người xuất gia đó, bất luận trên sự thực hay trên lý luận đều phân loại thành nhiều căn cơ, và đối với cái phương thức tu dưỡng, một mặt thừa nhận, không nhiều thì ít, có sự bất đồng, mặt khác lại muốn nhất ban hóa, thống chế hóa những đức mục tu dưỡng, cho nên Tu đạo luận đã nghiễm nhiên trở thành cực phức tạp và chi ly. Tuy nhiên, nếu phân loại một cách đơn giản thì những đức mục đó rốt cục không ngoài tam học giới, định, tuệ, bởi thế, nói một cách giản dị thì sự tu dưỡng của Tỷ khưu không ngoài ý nghĩa tu tam học: đây là phương châm căn bảnnhất quán từ Phật giáo nguyên thủyPhật giáo bộ phái. Do đó, trong thiên thứ sáu này, tuy đã lấy những đức mục đã được biểu thị ở trên làm bối cảnh, nhưng ở đây chỉ lấy đề mục tam học để nói rõ phương pháp tu dưỡng một cách đại thể, rồi từ đây, tiến lên bước nữa tôi tưởng lại phải bàn qua về quá trình đắc quả.


[1] Xuất xứ đầu tiên của 3 khổ thấy trong Trường Hàn, Chúng Tập Kinh, xem Đại Chánh, 1 trang 50, trung.

[2] Ngoài ra, trong kinh Phật Ban Nê Hoàn còn nói có bốn loại Tỷ khưu: 1- Nghèo cùng không tự nuôi thân được, 2- Mắc nợ mà không trả nổi, 3- Vô dụng đối với xã hội, 4- Cao sĩ sống thanh khiết, khi nghe Phật pháp thì bổng nhiên tâm ngộ xuất gia (Đại chính, 1, trang 172, trung).

[3] Bà sa, quyển 66, giải thích rằng: Thắng đạo là Phật và Độc giác; Thị đạoXá Lợi Phất; Mệnh đạo là A Nan; Ô đạo tuy chỉ cho Mạt Hát Lạt Ca có vết như ăn trộm, nhưng cũng còn chỉ cho những Tỷ khưu đặc thù hóa khác (Câu xá, quyển 15)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31333)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26225)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27519)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27910)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26710)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31232)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20263)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22924)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30050)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21574)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20241)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22665)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20751)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30314)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28791)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34726)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44225)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35514)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22542)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21379)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20685)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24759)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37920)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19043)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19330)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21820)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20871)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29522)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35128)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28816)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32602)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26223)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28933)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43151)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34965)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43931)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37900)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21331)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43026)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49014)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39838)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53781)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36825)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40815)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49739)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47310)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27698)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27026)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27233)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24071)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20847)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34319)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22466)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25121)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25847)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22953)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22473)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21761)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23321)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21187)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant