Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời người dịch

01 Tháng Mười 201000:00(Xem: 13185)
Lời người dịch

Lời người dịch

Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt: đó là một sự thực lịch sử mà, ngày nay, không một nhà nghiên cứu Phật pháp nào không thừa nhận. Về điểm này, nhà Phật học Nhật-Bản, Bác sĩ Mộc-Thôn-Thái-Hiền (Kimura Taiken), đã viết chung với Bác sĩ Cao-Nam một cuốn sách dưới tiêu đề Ấn Độ Triết Học Tôn Giáo Sử, trong đó, các ông đã giới thiệu một cách cực đơn giản, nhưng rất có hệ thống, tư tưởng Ấn Độ về hai phương diện triết họctôn giáo trước thời đại Phật giáo, làm cho người đọc không những chỉ hiểu nguồn gốc triết học, tôn giáo Ấn Độ trong các thời đại quá khứ mà, đồng thời, còn thấy một cách rất rõ, rất sâu và rộng cái bối cảnh đã sản sinh ra tư tưởng Phật giáo. Nhưng, Kumara Taiken là một học giả Phật giáo, chí ông không phải chỉ ở sự trình bày về tư tưởng triết học, tôn giáo của Ấn Độ cổ đại, mà, đối với tư tưởng Phật giáo, muốn mở ra một con đường tham cứu, bởi thế, công tác của ông đối với toàn thể Phật phápđi theo con đường tiến triển của tư tưởng để tạo nên một bộ luận có tổ chức vá nhất quán: ý hướngtư tưởngtính cách nhất quán này ta có thể thấy rõ trong các tác phẩm của ông, như: Nguyên Thủy Phật Giáo Tư Tưởng Luận (sẽ in một ngày gần đây), Tiểu Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận và Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận (đã xuất bản). Tại sao phải luận cứu như thế? Vì, nhận xét về phương diện phát triển tư tưởng của Phật giáo thì đúng là nó đã từ Nguyên Thủy tiến đến Tiểu Thừa và từ Tiểu Thừa mà đến Đại Thừa, cứ như thế tiến xa, tiến cao và, nghiên cứu Phật giáo, nếu không phát hiện được tiến trình tư tưởng đó thì rất khó mà hiểu một cách chính xác cái sai-dị-tính của Phật giáo qua các thời đại.

Đối với tư tưởng sử của Phật giáo Ấn Độ, Kimura Taiken đã chia thành ba bộ môn Nguyên Thủy Phật Giáo Tư Tưởng Luận, Tiểu Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận và Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận, rồi chỉnh lý và bàn luận thêm để chỉ người ta thấy cái nguồn gốc của tư tưởng Phật giáo Ấn Độ qua các thời kỳ, tức đâu là manh nha của tư tưởng Phật giáo Nguyên Thủy, đâu là tiền đạo của tư tưởng Phật giáo Tiểu Thừa và đâu là tiên phong của tư tưởng Phật giáo Đại Thừa: đọc ba bộ sách này ta sẽ tìm ra manh mối. Bởi thế, nếu muốn hiểu rõ tư tưởng sử của Phật giáo Ấn Độ, chúng ta không thể không đọc ba bộ sách quý giá này. Từ rất sớm, cuốn Nguyên Thủy Phật Giáo Tư Tưởng Luận đã được Âu Dương Hãn Tồn phiên dịch vào năm Dân Quốc XXII và do Thượng Hải Thương Vụ Ấn Thư Quân xuất bản; cuốn Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận do chúng tôi, (Thích Diễn Bồi) phiên dịch năm Dân Quốc XXXXIII và do Hương Cảng Nội Minh Xuất Bản Xã ấn hành. Hai cuốn sách này tuy được xuất bản cách nhau hơn hai mươi năm nhưng đều được các giới học giả coi trọng, đủ biết giá trị của chúng như thế nào rồi. Cái môi giới giữa Nguyên Thủy Phật Giáo Tư Tưởng Luận là Tiểu Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận, bởi thế, nếu không phiên dịch cuốn sau này nữa thì khó mà nhận ra toàn diện tư tưởng Phật giáo. Vì cảm thấy sự cần thiết như thế nên chúng tôi đã cố gắng phiên dịch nó để cống hiến những vị hằng lưu tâm đến việc nghiên cứu Phật pháp.

Cứ theo Kimura Taiken đã nói thì Tiểu Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận cũng còn gọi là A-Tỳ-Đạt-Ma-Tư-Tưởng-Luận. Ngay khi ông bắt đầu viết Nguyên Thủy Phật Giáo Tư Tưởng Luận ông đã có ý nguyện nghiên cứu A-Tỳ-Đạt-Ma Phật Giáo rồi và cuốn Nghiên Cứu A-Tỳ-Đạt-Ma Luận chính là tiên khu vậy. Sau, nhờ đã sưu tập và chuẩn bị được những tài liệu tương đương về phương diện nghiên cứu này nên ông đã dần dần bắt tay vào việc nghiên cứu A-Tỳ-Đạt-Ma Phật Giáo Tư Tưởng Luận mà ông hằng mong ước. Phạm vi liên quan của cái gọi là A-Tỳ-Đạt-Ma Phật Giáo Tư Tưởng, hay, nói khác đi Tiểu Thừa Phật Giáo Tư Tưởng, không phải chỉ hạn cục trong tư tưởng của những bộ luận đặc định nào, nếu suy rộng ra thì có thể nói tư tưởng sử nhất ban của Phật giáo ít ra là quan liên từ sau khi Phật nhập diệt suốt đến thời kỳ tư tưởng Phật giáo Đại Thừa hưng thịnh, do đó, phạm vi nghiên cứu của nó lẽ tự nhiên cũng rất rộng. Song, khảo sát tư tưởng A-Tỳ-Đạt-Ma Phật Giáo không dễ dàng như khảo sát tư tưởng Phật giáo Đại Thừa, bởi lẽ Tiểu Thừa có rất nhiều phái khác nhau mà theo truyền thuyết thông thường thì có tới mười tám hay hai mươi bộ phái, và mỗi phái đều có A-Tỳ-Đạt-Ma Luận Thư riêng, như vậy, tư tưởng đặc hữu do mỗi phái chủ trương đều phải được trình bày. Nhưng, phàm muốn trình bày và giới thiệu tư tưởng của một học phái nào tất phải dựa vào sách vở của học phái đó chứ không thể chỉ căn cứ vào ý tưởng riêng của mình rồi muốn nói thế nào thì nói mà được. Song, ai cũng biết rằng, những luận thư chủ yếu do cả nam và bắc lưu truyền đến ngày nay chỉ một số ít bộ phái có, còn A-Tỳ-Đạt-Ma Luận Thư của nhiều bộ phái hiện nay đã thất lạc. Như vậy, đối với những phái không có sách vở truyền lại thì tư tưởng của họ chỉ còn được biết đến một cách rời rạc và tản mạn từ các luận thư khác và lẽ dĩ nhiên là không được hoàn toàn. Cho nên, nếu đứng về phương diện toàn bộ A-Tỳ-Đạt-Ma Tư Tưởng Luận mà nói thì bộ sách này vẫn chưa đề cập đến tư tưởng tất cả các bộ phái: đều này tưởng không cần nói ai cũng biết. Điều ấy chính tác giả cũng đã phải thừa nhận khi ông nói: “Về tư tưởng này, sự chuẩn bị của tôi, đến một trình độ nào đó, vẫn chưa được chỉnh lý một cách đầy đủ”. Nhưng, như thế không có nghĩa là tác giả đã không dụng công mà thật ra vì đã không có tài liệu làm căn cứ, đó là một sự bất đắc dĩ. Bất cứ ai, khi luận cứu đến vấn đề này cũng sẽ cảm thấy cực kỳ khó khăn mà không có cách nào giải quyết được cả.

Tuy nói thế, nhưng, đối với các A-Tỳ-Đạt-Ma Luận Thư hiện có, tác giả thật đã dầy công nhiên cứu, với cái học uyên báctài năng lỗi lạc, ông đã áp dụng phương pháp hoàn toàn mới trong việc nghiên cứu; điều này xem nội dung tác phẩm của ông cũng đủ rõ. Duy còn một điều chúng cần đặc biệt lưu ý là: trong các Thánh Điển của Phật giáo, bản thân A-Tỳ-Đạt-Ma hết sức phiền tỏa, vả cũng có khi rất khô khan vô vị nữa, bởi thế ta thấy trong tác phẩm của ông, khi ông luận cứu về một vấn đề nào đó, thường đột nhập những vấn đề cực phiền tỏa hoặc cực vô vị khiến cho người đọc không khỏi cảm thấy tẻ nhạt. Nhưng không có cách nào khác hơn, vì lẽ thuyết minh tư tưởng của A-Tỳ-Đạt-Ma Phật giáo mà không đề cập đến A-Tỳ-Đạt-Ma Luận Thư thì thật “vô pháp khả thi”. Song, đối với những vấn đề như thế tác giả xử lý một cách rất có phương pháp và khéo léo, nghĩa là, tác giả chỉ nắm lấy những điểm chủ yếu rồi tóm tắt và phê phán cái ý chính của vấn đề khiến cho người đọc, nếu nhẫn nại một chút, ai cũng có thể có được một khái niệm đại cương về các vấn đề ấy, bởi thế tôi cho đây là một cuốn sách rất có giá trị, không những về phương diện tư tưởng, mà cả về phương diện tổ chức và phương pháp nghiên cứu mà những ai hằng lưu tâm tìm hiểu Phật pháp không thể không đọc qua.

Phần nội dung của cuốn sách được chia thành hai bộ phận lớn là TỔNG TỰ và BẢN LUẬN. Trong phần TỔNG TỰ gồm có năm TIẾT, cho chúng ta thấy sự dị, đồng giữa Nguyên Thủy Phật Giáo và A-Tỳ-Đạt-Ma Phật giáo như thế nào, sự phân phái và A-Tỳ-Đạt-Ma của các phái ra sao, A-Tỳ-Đạt-Ma Luận Thư bắt nguồn từ bao giờ, quá trình phát đạt của chúng ra sao và yếu nghĩa của A-Tỳ-Đạt-Ma là gì, v.v… Trong phần BẢN LUẬN gồm có sáu Thiên lớn: Thiên thứ nhất, Phật Đà Luận cho thấy cách nhận xét của các học giả A-Tỳ-Đạt-Ma về sự xuất hiện của đức Phậtthế gian này, luận từ Bồ Tát suốt đến Phật Thân Quan. Thiên thứ hai, yếu tố thành lập vũ trụ, thuyết minh về vũ trụ vạn hữu đựơc thành lập như thế nào, thuyết minh từ bản chất tồn tại các loại yếu tố, cho đến Nhân Duyên Luận. Thiên thứ ba là Thế Giới Quan, trước hết, trong phần Tổng Luận, nói rõ về định nghĩa Thế Giới Quan, kế đó, thuyết minh Thế Giới Quan của Phật giáo nguyên thủy, Thế Giới Quan của A-Tỳ-Đạt-Ma, rồi tiến lên bước nữa, lại từ Thế Giới Quan của Bà La môn nói đến Thế Giới Quan của Phật giáo, Thiên thứ tư Tâm Lý Luận, từ cái gọi là tự thể của tâm, tướng nhất của tâm, tác dụng của tâm,v.v… để nói về những hoạt động tâm lý phức tạp của người ta, như tình tự, ý chí, cảm giác, mộng mị và phát cuồng, tất cả đều được thuyết minh một cách tường tận. Thiên thứ năm Luân Lý Luận trong đó chia ra tám CHƯƠNG, nói rõ về hành vi đạo đức và do hành vi mà có luân hồi, ba tính thiện, ác, vô ký, mối quan hệ giữa ba tính và các dụng của tâm ra sao, hành vi đạo đức là gì, tướng trạng của nó như thế nào, do nghiệp thiện ác, mà có quả báo sướng, khổ ra sao, tướng trạng luân hồi như thế nào, sự quan hệ giữa hình thức luân hồiDuyên Khởi Luận, và Mười Hai Nhân Duyên Luận là hình thức luân hồi, v.v… Đứng trên lập trường tôn giáo học mà nhận xét thì đây là một Thiên rất trọng yếu, Thiên thứ sáu, Tu Đạo Luận cho ta thấy tại sao phải tu đạo, nguyên tắc tu đạo là gì, sau hết luận qua về Thiền Định. Rất tiếc Thiền này chưa hoàn tất, tất cả vấn đề như: tâm lý quan có liên quan với Thiền, lý tưởng luận, phương pháp luận, và mục đích luận v.v… đều chưa được bàn tới, đối với người đọc, đây là một điều rất đáng tiếc.

Viết tại Bảo Đảo, Phúc Nghiêm Tinh Xá

Ngày 6 tháng 6 năm Dân Quốc thứ XXXXVI.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31341)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26226)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27529)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27923)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26719)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31237)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20266)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22946)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30065)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21579)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20252)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22670)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20760)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30321)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28796)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34734)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44242)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35522)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22549)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21381)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20693)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24767)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37929)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19050)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19339)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21845)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20877)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29528)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35157)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28837)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32610)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26229)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28933)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43154)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34974)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43944)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37918)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21336)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43030)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49021)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39850)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53786)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36831)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40816)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49740)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47320)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27723)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27032)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27236)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24080)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20859)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34323)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22474)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25128)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25855)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22958)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22474)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21764)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23326)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21188)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant