Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiên Thứ VI: Tu Đạo Luận

01 Tháng Mười 201000:00(Xem: 11963)
Thiên Thứ VI: Tu Đạo Luận


Thiên Thứ VI: Tu Đạo Luận

CHƯƠNG I

ĐỘNG CƠ TU ĐẠO VỚI TU ĐẠO PHÁP NHẤT BAN

1- ĐỘNG CƠ TU HÀNH VỚI KHỔ QUAN.

Trở lên là tiếp theo tâm lý luận để trình bày một cách đại yếu về luận lý quan của A-tỳ-đạt-ma. Song, những điểm được trình bày trong chương cuối cùng thứ tư, cứ theo A-tỳ-đạt-ma, thì luân lý chủ yếu là thuộc phạm vi luân hồi, tuy có phân biệt thiện nghiệp sinh thiện thú, ác nghiệp sinh ác thú, nhưng tất cả chỉ là biến dị hữu lậu. Cho dù thiện nghiệp được luôn luôn kế tục nhưng phần kết quả thu lượm được vẫn dao động chứ không thể là cứu kính an định. Vả lại, hữu tình thường lấy ngã dục làm trung tâm, cho nên, có khi vì không biết, có khi vì tham dục, sân huệ mà ác nghiệp; và trường hợp đó xảy ra rất thường, bởi vậy mà kết quả thụ hưởng ra sao cũng có thể thấy rõ rồi. Như vậy, nhận thấy tầm mắt thấy xa thì tất cả mọi sự trong thế gian này đều không an định, nói một cách tóm tắt, tất cả đều là khổ. Cái chứng cứ lớn nhất của Khổ quan là: vì cũng là một hiện tượng thiên nhiên nên, con người, mật mặt tuy phải phục tòng định luật tất nhiên của vận mệnh, nhưng, mặt khác, vì cũng là một sự tồn tại tinh thần nên lại có yêu cầu tự do vô hạn. Đó là sự mâu thuẩn bất tương dung và vì phải sống trong thế giằng co ấy mà con người cảm thấy đau khổ: điều này tôi đã thường trình bày qua. Đức Phật cho tất cả đều là khổ, cái lý do chính cũng ở đó. Song, cái cảm thống khổ đau ấy cũng lại là động cơ thúc đẩy con người tìm đến sự giải thoát trong tôn giáo. Đức Phật chủ trương đời là bể khổ chính là vì cái thực tướng này của thế gian. Do đó, chủ trương này, về sau đã trở thành một đặc trưng về nhân sinh quan Phật giáo thông cả Tiểu thừaĐại thừa. Nhưng làm thế nào để giải thoát khỏi khổ? Cũng như các vấn đề khác trong Phật giáo, vấn đề này một khi được đặt ra thì cũng lại có nhiều nghị luận bất đồng. đạo Đại thừa Bồ tát chẳng hạn, xác lập lý tưởng vĩnh viễn, lấy tất cả hoạt động tự phát mà định giá trị của lý tưởng đó, do vậy khổ cũng được coi như thứ hồi hướng tới đại lý tưởng ấy. Trong Tiểu thừa Phật giáo con đường giải thoát khổ có tính cách tiêu cực, trên thực tế, làm cách nào để có thể đạt đến thế giới hết khổ đau? Đây chính là vấn đề chủ yếu. Như ai nấy đều biết, A-tỳ-đạt-ma y theo giải thích bình diện, ở nhiều trường hợp, nói rõ nguyên nhân của thế giới khổ đau chính là đã phê phán giá trị của thế giới vậy. Đời là khổ, và chính đó là động cơ tu đạo. A-tỳ-đạt-ma đã thuyết minh khổ như thế nào? Trong các kinh có nhiều cách thuyết minh về khổ, và để thích ứng, A-tỳ-đạt-ma đối với khổ, cũng có nhiều thuyết minh. Nhưng nếu nói một cách tóm tắt thì cái phương pháp xử lý phổ thông là đem định nghĩa khổ chia ra làm nhiều loại. Chiếu theo Khế kinh thì định bình của khổ có tám, đó là sống khổ, già khổ, chết khổ, cầu thương khổ, lo buồn khổ, oán ghét mà gặp gỡ là khổ, yêu thương mà chia lìa là khổ, tất cả sự cầu mong không thỏa mãn là khổ (Vism, p. 498). Lại nói một cách đơn giản là: tất cả vô thường là khổ, tất cả khổ là vô ngã, “biết các hành vô thường, đều là pháp biến dị, bởi thế nói thụ tất cả khổ, đó là điều người chính giác đã biết rõ” (Tạp-a-hàm quyển 17, Đại chính, 2, trang 121, cột trên). Vì vô thường nên khổ, khổ vì vô ngã. A-tỳ-đạt-ma tuy thuyết minh nhiều về những nỗi khổ đó, nhưng dần dần đã đem thống nhất và, cuối cùng, còn muốn tập hợp lại nữa. Về định nghĩa của khổ, Phật Âm nói:

Khổ tướng là sự buồn bực liên miên và là hình của sự buồn bực liên miên đó (Vism, p. 640).

Lại có bốn trạng thái: 1- Trạng thái buồn bực, 2- Trạng thái vô thường (hành), 3- Trạng thái thiêu đốt, 4- Trạng thái biến hoại (ibid p. 494). Trạng thái một và trạng thái ba là bản thân của khổ đau, còn trạng thái hai và trạng thái bốn, đại khái trong nhất thời không là khổ đau nhưng cuối cùng lại quy về khổ. Về pía Bắc truyền thông lệ chia khổ thành ba loại[1], tức là khổ lhổ, hành khổhoại khổ (Câu xá, quyển 22). Khổ khổ là tự thân của khổ; hành khổ là sự vô thường, bất an nên khổ; hoại khổ là vì những khoái lạc hiện tại cuối cùng cũng có lúc tiêu tan nên khổ (có thể so sánh với ba khổ của Số luậny nội khổ, y ngoại khổ, y hành khổ - Sáu Phái Triết Học Ấn Độ trang 7). Tựu trung, hai loại sau này là đặc trưng của nhân sinh Phật giáo, tức cuộc sống của con người, dù là hữu lậu, về mặt cảm giác, cho dù không thấy khổ, nhưng vì vô thường biến hoại, thiếu mất tính bất biến thường hằng, cho nên, về điểm này, có thể nói tất cả ở thế gian đều là khổ.

Từ nhân sinh quan đó, vấn đề tất nhiên phải được đặt ra là: làm thế nào để có thể đạt đến cảnh giới triệt để giải thoátrốt ráo yên ổn? Đây là đề mục tối cao của Phật giáo. Tập hợp và hiển bày một cách đơn giản khóa để này là Bốn Đế: khổ, tập, diệt, đạo. Cội nguồn thống khổ của kiếp người lấy bất tuyệt dục làm cơ sở, vì y vào phiền não, bởi thế, muốn hết khổ phải diệt phiền não thì phải tu đạo: đó là căn cứ của Tu đạo luận.

2- NHỮNG ĐỨC MỤC TU ĐẠO.

Nhưng cái đạo diệt phiền não ấy là gì? Nói theo Tứ đế luận thì phổ thôngBát chính đạo, tuy đưa ra tám đức mục, nhưng dần tiến đến A-tỳ-đạt-ma thì một mặt nói Bát chính đạo, mặt khác, trên Bát chính đạo, như Tứ niệm xứ, Bát chính đoạn, Tứ thần túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, lại đưa ra cái gọi là bảy khoa ba mươi bảy đạo phẩm làm thông lệ. Ngoài Bát chính, sáu khoa kia, về ý nghĩa, đứng ngang hang với Bát chính, nếu nói một cách thực tế, thì bảy khoa là những đức mục chỉ khác nhau về lập trường chứ không phải bất đồng về tính chất. Kỳ thực, những đức mục tu đạo trong Khế kinh không hạn định trong bảy khoa, mà ngoài ra còn có mười niệm, mười tưởng, bốn thiền, bốn vô lượng, bốn vô sắc v.v… do đó không thể đưa ra con số nhất định được. Do những đức mục đó không phải bất đồng trên tính chất, nên yêu cầu giải thoát không nhất định phải tu theo tất cả pháp môn. Cứ theo Phật giáo nguyên thủy thì tuy chuyên tu một pháp môn nào đó, nhưng vì thời cơtình thế có khác, nên, theo ý nghĩa “tùy bệnh cho thuốc”, đức Phật đã chỉ bày nhiều phương thức. Như đã trình bày ở trên, đặt chất của bộ phái Phật giáo là, thay vì lấy thế gian pháp làm chủ, lại đặt ra trong tâm cái gọi là xuất thế gian pháp (giải thoát pháp) và, để thích ứng đức mục tu đạo là đối tượng là các A-tỳ-đạt-ma luận sư đã tận lực luận cứu, chỉnh lý và phân loại. Nhất là A-tỳ-đạt-ma ở thời kỳ, như tôi đã trình bày trước, chuyên lấy việc giải thích các đức mục tu hành làm đề mục chủ yếu. Thế rồi, đến A-tỳ-đạt-ma tiến bộ, ngoài Tu đạo luận ra, đối với việc thuyết minh thế giới sự thực, tuy có tăng gia nhiều, nhưng cái phương pháp của Tu đạo luận dần dần đã trở nên tinh tế, và nhiếp thủ toàn bộ các đức mục phối hợp chúng với quá trình tiến triển trong việc tu đạo, để muốn chỉnh lý chúng theo thuận tự: đó là một đặc trưng lớn của thời kỳ tiến bộ này. Bởi thế, trong các kinh, luận cổ, những đức mục được coi là trọng yếu cũng chỉ được thuyết minh một cách giản dị, đơn thuần; trái lại, trong các kinh, luận mới,tuy được chỉnh lý nhiều, nhưng thuyết minh về tu đạo, so với thời đại Phật giáo nguyên thủy, phức tạp hơn nhiều, và, nói theo một ý nghĩa nào đó, đã xa rời thực tế: đây là một sự thật hiển nhiên. Để thích ứng với tín ngưỡng, ở thời đại Phật giáo nguyên thủy, quả A-la-hán không phải khó khăn để đạt được, nhưng một khi đã được A-tỳ-đạt-ma chỉnh lý thì nó biến thành quả vị tối cao, người thường khó mà đạt được. Do sự tiến bộ về học vấn mà Tiểu thừa Phật giáo thật đã mất hẳn cái hương vị tôn giáo. Nếu nhận xét điều này về phương diện thần học, thì các phiền não, đạo diệt phiền não, và những cảnh giới nhờ đó mà đạt được, tất cả Tiểu thừa đều muốn chỉnh lý cho có trật tự hẳn hoi: đây là điểm rất lý thú mà ta không thể bỏ qua.

3- TƯ CÁCH TU ĐẠO.

Về Tu đạo luận vẫn còn đề mục nữa không thể không bàn đến, đó là người ta phải có tư cách như thế nào để thích ứng với việc tu đạo? Về luân lý đạo đức được trình bày trong thiên trước thì người ta, bất luận ai cũng đều nên theo, nhưng về tu đạo, nếu nói theo nghĩa hẹp, thì so với luân lý, phạm vi của nó còn hẹp hơn, và tính chất của nó không thích dụng. Điều này, chiếu theo các giáo phái Bà-la-môn thì người tua đạo thích hợp đại khái chỉ hạn cục trong ba giai cấp trên mà thôi (tham chiếu kinh Phệ Đàn Đa, mục nói về tư cách; trong phái Số luận, tuy lấy ba giai cấp trên làm chủ, nhưng cũng có khi chấp nhận cả giai cấp thứ tư). Nhưng Phật giáo chủ trương bốn giai cấp đều thanh tịnh, vì đặc chất ấy cho nên đến Phật giáo Bộ phái, đối với bốn giai cấp, tự nhiên đã không đặt ra mật hạn chế nào cả. Về nam nữ tính thì Phật giáo nguyên thủy đã thừa nhận có sự tu đạo thích hợp cho cả nam nữ, và cũng có khả năng tính đạt được giải thoát, mà trên thực tế, nữ tính đắc quả cũng không phải ít. Bởi thế, đến Phật giáo Bộ phái đối với vấn đề này cũng không có dấu hiệu đã đặt ra hạn chế hay sự khu biệt đặt biệt nào. Duy có vấn đề là sự khu biệt giữa tại giaxuất gia; tức muốn tu đạo phải xuất gia hay ở tại gia cũng có thể? Vấn đề này, chiếu theo Phật giáo nguyên thủy, đức Phật bảo là tuy ở tại gia nhưng nếu tâm nay thẳng, dốc lòng tu đạo thì tại gia cũng có thể tới giải thoát, nhất là Ưu bà tắc, Ưu bà di, trong bốn quả, đức Phật nhận là có thể đạt được quả thứ ba, điều này tôi đã trình bày qua rồi (Nguyên Thủy Phật Giáo Tư tưởng Luận). Song, sự tu dưỡng triệt để, muốn được giải thoát thật sự ngay trong hiện tại, thì công năng xuất gia lớn hơn công năng tại gia, đây cũng là một sự thật rõ rệt (như trong Trung a hàm quyển 31, Lại-tra-hòa-la-kinh, và Trung a hàm quyển 8, sa-kê-đế-tam-tộc-tính kinh v.v…). Nhưng thuyết này, đến Phật giáo Bộ phái thừa kế như thế nào? Nói một cách đại thể thì đến Phật giáo Bộ phái, thuyết này tuy cũng giống nhau, nhưng về phương diện tinh thần thì có điểm rất bất đồng. Phật giáo nguyên thủy tuy tưởng lệ xuất gia, nhưng cũng rất chú trọng đến sinh hoạt luân lý tại gia, đến Phật giáo Bộ phái thì, cứ theo A-tỳ-đạt-ma lại coi thường phương diện luân lý tại gia mà chuyên đề cao pháp tu dưỡng xuất gia và kết quả, đó là sự thật không thể chối cãi (Thành-thật-luận 17, Ác giác phẩm 182, bảo hành giả ngoài việc không được khởi dục niệm, tâm sân khuể và tâm não hại, còn đưa ra thân lý giác (tâm lo cho nước), quốc độ giác (tâm muốn đi du lịch các nơi), bất tử giác, lợi tha tâm và khinh tha tâm v.v… Tựu trung, bất tử giác, là trước hết đọc tụng năm tạng là tam tạng, tạp tạngBồ tát tạng rồi mớinghiên cứu ngoại điển, nuôi dưỡng đệ tửgiáo hóa chúng nhân, tu đạo dần dần như thế. Đây là sự ngộ nhận về trước, sau). Nền thần học của A-tỳ-đạt-ma thật vô cùng phiền tỏa, nhận xuất gia là do nhà chuyên môn mà phát đạt. Tóm lại, theo ý nghĩa ấy, người chính đầy đủ tư cách tu dưỡng là người xuất gia, tại gia nhờ tôn kính cúng dàng xuất gia mà được tham dự phần phúc đức, đó là tư cách phổ thông, còn người tại gia nào dốc lòng tu dưỡng theo đạo xuất gia thì điều đó không ai cấm. Do đó, song song với sự hưng thịnh của Phật giáo Tiểu thừa, sự xuất gia cũng phát đạt rất nhiều, đến đây người ta không lấy làm lạ tại sao có nhiều người xuất gia. Ở thời đại đức Phật, vì Phật giáo hưng thịnh nên có đủ loại động cơ xuất gia, bởi thế đức Phật đã phải phân biệt thành nhiều thứ. Như trong Trường-a-hàm quyển 3, Du hành kinh, trong phần Phật dạy Chân Na, có nói đến bốn loại xuất gia: 1- Hành đạo thù thắng, 2- Thiện quyết đạo nghĩa, 3- Y đạo sinh hoạt, 4- Vị đạo tác uế (Đại chính, 1, trang 18, trung)[2]. Tựu trung, hành đạo thù thắng nghĩa là đạo hạnh hơn người; thiện quyết đạo nghĩa, là đối với giáo nghĩa của Phật giáo có tài tuyên thuyết khéo léo, y đạo sinh hoạt là đạo hạnh tuy không thù thắng, thuyết pháp tuy không khéo léo, nhưng dù sao vẫn giữ được nếp sống người xuất gia; còn vị đạo tác uế là những Tỷ khưu phá giới[3]. Lại Thập tụng luật quyển 1 (Đại chính, 23, trang 2, thượng), cũng đưa ra bốn loại Tỷ khưu: 1- Danh tự Tỷ khưu, 2- Tự ngôn Tỷ khưu, 3- Vị khất Tỷ khưu, 4- Phá phiền não Tỷ khưu (Câu xá, quyển 15 trích dụng). Tựu trung, Danh tự Tỷ khưu nghĩa là tuy xưng danh là Tỷ khưu nhưng thật ra là thế tục; Tự ngộn Tỷ khưu nghĩa là người tự xưng là Tỷ khưu; Vị khất Tỷ khưu, chiếu theo nghĩa đen là người ăn xin, tức những người hành khất; Phá phiền não Tỷ khưu là những người Tỷ khưu chân chính. Tỷ khưu của Phật giáo phải là hạng thứ tư này: chính sự phân loại trên đã bao hàm ý nghĩa ấy. Ở thời đại Phật giáo nguyên thủy, về mặt đạo hạnh, đã cần phải có sự khu biệt như thế rồi, bởi thế, đến thời đại Phật giáo Bộ phái vốn chủ nghĩa hóa và hình thức hóa đạo xuất gia, thì dĩ nhiên,trên thự tế đã chia ra nhiều loại Tỷ khưu. Do đó, A-tỳ-đạt-ma luận thư lấy đó làm một trong nhiều vấn đề cũng là lẽ tự nhiên vậy. Như các nhân phẩm được nói đến trong các A-tỳ-đạt-ma luận thư (chẳng hạn, Nhân phẩm trong Xá-lợi-phất-a-tỳ-đàm luận, quyển 7), tuy chưa hẳn chỉ là những người xuất gia, nhưng dù sao cũng lấy trình độ tu hành của những người xuất gia làm trung tâm mà phân loại căn cơ hay tính chất của họ để hiển bày tiến trình đưa đến địa vị cao tột.

Như vậy, đến thời đại Phật giáo Bộ phái, ít ra là trên hình thức, đã trở thành chủ nghĩa xuất gia, mà những người xuất gia đó, bất luận trên sự thực hay trên lý luận đều phân loại thành nhiều căn cơ, và đối với cái phương thức tu dưỡng, một mặt thừa nhận, không nhiều thì ít, có sự bất đồng, mặt khác lại muốn nhất ban hóa, thống chế hóa những đức mục tu dưỡng, cho nên Tu đạo luận đã nghiễm nhiên trở thành cực phức tạp và chi ly. Tuy nhiên, nếu phân loại một cách đơn giản thì những đức mục đó rốt cục không ngoài tam học giới, định, tuệ, bởi thế, nói một cách giản dị thì sự tu dưỡng của Tỷ khưu không ngoài ý nghĩa tu tam học: đây là phương châm căn bảnnhất quán từ Phật giáo nguyên thủyPhật giáo bộ phái. Do đó, trong thiên thứ sáu này, tuy đã lấy những đức mục đã được biểu thị ở trên làm bối cảnh, nhưng ở đây chỉ lấy đề mục tam học để nói rõ phương pháp tu dưỡng một cách đại thể, rồi từ đây, tiến lên bước nữa tôi tưởng lại phải bàn qua về quá trình đắc quả.


[1] Xuất xứ đầu tiên của 3 khổ thấy trong Trường Hàn, Chúng Tập Kinh, xem Đại Chánh, 1 trang 50, trung.

[2] Ngoài ra, trong kinh Phật Ban Nê Hoàn còn nói có bốn loại Tỷ khưu: 1- Nghèo cùng không tự nuôi thân được, 2- Mắc nợ mà không trả nổi, 3- Vô dụng đối với xã hội, 4- Cao sĩ sống thanh khiết, khi nghe Phật pháp thì bổng nhiên tâm ngộ xuất gia (Đại chính, 1, trang 172, trung).

[3] Bà sa, quyển 66, giải thích rằng: Thắng đạo là Phật và Độc giác; Thị đạoXá Lợi Phất; Mệnh đạo là A Nan; Ô đạo tuy chỉ cho Mạt Hát Lạt Ca có vết như ăn trộm, nhưng cũng còn chỉ cho những Tỷ khưu đặc thù hóa khác (Câu xá, quyển 15)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12531)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14116)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10860)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10531)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11205)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12012)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13168)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13661)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33684)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11348)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12944)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13069)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11643)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17910)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11453)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11871)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11521)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18989)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12565)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11352)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13157)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15789)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11832)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11706)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12785)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12643)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13979)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13008)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12960)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13309)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12785)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12719)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11766)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11744)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12350)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12397)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19839)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11979)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12001)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16898)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12685)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15073)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16133)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12900)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12256)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11932)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11936)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13166)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16521)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13239)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12507)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11835)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19874)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11172)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11272)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10411)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11108)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10983)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10052)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11762)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant