Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

59. Đôi bạn đồng tu

03 Tháng Ba 201100:00(Xem: 9691)
59. Đôi bạn đồng tu

MỘT TRĂM BÀI KINH PHẬT
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

PHẨM THỨ SÁU: CHƯ THIÊN CÚNG DƯỜNG

ĐÔI BẠN ĐỒNG TU

Lúc ấy, Phật ở gần thành Xá-vệ, trong vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc. Vào khoảng đầu hôm, có năm trăm vị thiên tử hiện thân trang nghiêm đẹp đẽ, mang theo những hương hoa, trân bảo từ cõi trời, đến lễ bái cúng dường Phật. Lễ bái cúng dường xong, liền ngồi sang một bên nghe pháp. Phật thuyết pháp Tứ diệu đế cho nghe rồi, tâm ý liền khai mở, đắc quả Tu-đà-hoàn, liền lễ Phật rồi quay về cõi trời.

Sáng hôm sau, chư tỳ-kheo thưa hỏi Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Đêm qua có hào quang chiếu sáng ở nơi tinh xá, chẳng hay đó là các vị Thích phạm, tứ thiên vương, hay hai mươi tám bộ quỷ thần đến nghe pháp?”

Phật nói: “Chẳng phải Thích phạm, thiên thần, tứ thiên vương đến nghe pháp. Ấy là năm trăm vị thiên tử từ cõi trời Đao-lỵ hiện đến cúng dường ta. Các ngươi muốn biết nhân duyên nghiệp quả của những vị ấy, hãy chú tâm lắng nghe, ta sẽ vì các ngươi mà giảng giải.

“Về thuở quá khứ cách đây đã vô số kiếp, vào thời của đức Phật Ca-diếp tại thế, có hai người bà-la-môn sắp đi theo vua đến chỗ Phật mà lễ bái cúng dường. Trong thành có một cư sĩ đến khuyên hai người bà-la-môn ấy rằng: ‘Nay các ông được theo vua đến gặp Phật, nhân đó nên thọ lấy phép Bát quan trai.’

“Hai người bà-la-môn hỏi: ‘Thọ phép trai giới ấy có lợi ích gì?’ Cư sĩ ấy đáp: ‘Thọ phép trai giới ấy, tùy theo chỗ sở nguyện của mình, hết thảy đều được thành tựu.’

“Hai người bà-la-môn liền nghe lời cư sĩ ấy, khi đến lễ Phật cùng nhau thọ phép Bát quan trai. Một người cầu được sinh lên cõi trời, còn người kia cầu được làm vua ở cõi người. Sau khi thọ trai giới rồi, liền cùng nhau quay về chỗ tụ họp của những người bà-la-môn.

“Những người bà-la-môn khác bảo hai người rằng: ‘Các ông đang đói khát, có thể đến đây cùng ăn uống.’ Hai người đáp: ‘Chúng tôi thọ trai giới của Phật, đã quá giờ thì không ăn.’

“Những người kia nói: ‘Bà-la-môn chúng ta cũng tự có đủ phép tắc, quy luật, sao hai người lại đi thọ trai giới của mấy ông sa-môn?’ Nói vậy rồi lại ân cần mời thỉnh nhiều lần, ép buộc hai người phải ăn uống với họ.

“Người bà-la-môn cầu sinh lên cõi trời, khi ấy không giữ được, liền ngồi xuống cùng ăn uống. Do không giữ trọn giới đã thọ nên không thành sở nguyện, mạng chung sinh vào loài rồng.

“Người bà-la-môn cầu được làm vua, kiên trì giữ giới, tuyệt không chịu ăn uống với họ. Nhờ vậy, được thành sở nguyện, đời sau được làm một vị quốc vương.

“Do hai người cùng thọ phép Bát quan trai với nhau, nên lại sinh ra cùng một chỗ với nhau. Người phải sinh vào loài rồng, khi ấy ở trong cái hồ lớn giữa vườn của nhà vua.

“Người giữ vườn mỗi ngày đều hái các loại hoa quả trong vườn dâng lên cho vua. Ngày kia, nơi cái ao lớn giữa vườn bỗng nảy sinh một thứ quả lạ, to lớn mà có mùi thơm ngon kỳ tuyệt.

“Người giữ vườn hái được quả ấy, tiếc không nỡ ăn, suy nghĩ rằng: ‘Ta làm công việc này, ngày ngày ra vào đều phải qua chỗ quan giữ cửa. Nay được quả thơm ngọt này, nên mang biếu ông ta.’ Nghĩ rồi liền mang biếu quan giữ cửa.

“Quan giữ cửa nhận được, cũng không nỡ ăn, suy nghĩ rằng: ‘Ta mỗi ngày ra vào đều qua chỗ quan Hoàng môn. Nay được quả lạ này, nên mang biếu ông ta.’ Nghĩ vậy rồi, liền mang quả đi biếu.

“Quan Hoàng môn nhận được, cũng không nỡ ăn mất, suy nghĩ rằng: ‘Hoàng hậu thời vì ta mà khéo nói với vua, khen ta có tài có đức. Nhờ vậy mà ta mới được vua tin dùng. Nay được quả lạ này, nên mang biếu hoàng hậu mới phải.’ Nghĩ rồi liền mang đi biếu cho hoàng hậu.

“Hoàng hậu được quả ấy rồi, liền dâng lên cho vua. Vua được quả ấy liền bổ ra ăn, thấy hương vị ngon ngọt lạ thường xưa nay chưa từng được biết, mới hỏi hoàng hậu rằng: ‘Do đâu mà hoàng hậu có được thứ quả ngon lạ này?’ Hoàng hậu liền chỉ đến quan Hoàng môn. Vua truyền hỏi quan Hoàng môn, lại chỉ đến quan Môn giám. Vua truyền hỏi quan Môn giám, liền chỉ đến người giữ vườn.

“Vua liền gọi người giữ vườn đến, quở trách rằng: ‘Trong vườn có thứ quả ngon lạ đến thế, tại sao không dâng lên ta mà mang cho người khác?’ Nói rồi muốn bắt tội. Người giữ vườn hết lời phân trần, rằng trong vườn chẳng hề có thứ quả ấy, chỉ là tự nhiên hóa sinh một quả nơi hồ lớn mà thôi. Vua không nghe, truyền rằng: ‘Tạm tha chết cho ngươi, nhưng từ nay về sau phải thường dâng loại quả ấy. Nhược bằng không có tất phải tội chết.’

“Người giữ vườn trở về, vào trong vườn đến bên bờ hồ mà than khóc thảm thiết. Loại quả ấy chẳng trồng trong vườn này, nay biết tìm ở đâu mà có được? Nếu không có, tất phải tội chết không tránh khỏi.

“Bấy giờ, long vương trong hồ lớn nghe tiếng than khóc liền hiện lên, hóa thân làm một người từ xa đi lại, hỏi rằng: ‘Có việc chi mà người khóc lóc sầu thảm như vậy?’

“Người giữ vườn nói: ‘Ngày hôm qua tôi được một quả cây ngon lạ nổi lên từ hồ này, mang cho quan giữ cửa. Ông này lại mang cho quan Hoàng môn, quan Hoàng môn dâng cho hoàng hậu, hoàng hậu lại dâng cho vua. Vua ăn quả ấy thấy ngon ngọt, bây giờ buộc tôi phải từ nay về sau phải thường dâng cho vua quả ấy, nếu không thì bắt tội chết. Nhưng quả ấy không trồng mà được, nay tôi biết tìm ở đâu ra? Vì vậy mà đến đây than khóc.’

“Hóa thân của long vương nghe vậy rồi, liền trở về thủy phủ dưới lòng hồ sâu, lấy loại quả ngon lạ ấy lên, đặt trong một cái khay bằng vàng, trao cho người giữ vườn và nói rằng: ‘Nay ngươi mang quả này mà dâng cho vua, ta nhờ ngươi nói với vua điều này: Ta với vua vào thời Phật còn tại thế, vốn là bạn thân với nhau, cùng tu tập Bát quan trai giới. Vua giữ giới trọn vẹn, cầu làm vua thì nay được làm vua. Còn ta do không giữ giới trọn vẹn, nên sinh vào loài rồng. Vì vậy, ta muốn thọ phép Bát quan traitu tập một lần nữa, cầu xả bỏ thân này. Ngươi hãy nói với vua tìm cho ta một bản kinh văn để ta theo đó tu tập. Nếu không giúp ta, ta sẽ biến cả nước của vua thành biển lớn.’

“Người làm vườn đến dâng quả cho vua, rồi trình bày lại những lời rồng nói. Vua nghe việc ấy rồi thì trong lòng lo lắng, không vui. Bởi vì thời ấy không có Phật ra đời, đến tên gọi còn chẳng ai biết đến, huống là tìm được kinh văn? Mà nếu không tìm được, cả nước phải nguy hại. Nghĩ như vậy rồi chẳng biết làm sao được.

“Bấy giờ, có một vị đại thần được vua kính trọng lắm. Vua sai triệu đến bảo rằng: ‘Long thần nhờ ta tìm bản văn Bát quan trai. Nay khanh nên vì ta sớm tìm cho được bản văn ấy.’ Đại thần đáp: ‘Thời nay không có pháp Phật, làm sao tìm được kinh văn? Vua nói: ‘Nếu không tìm được, phải bắt tội chết.’

“Đại thần nhận lệnh vua rồi, trong lòng lo âu, mặt mày biến sắc. Khi trở về nhà bồn chồn lo lắng không yên. Người cha của ông là một vị kỳ lão đã rất cao niên, nhìn thấy vậy thì đoán biết có chuyện nghiêm trọng, liền hỏi: ‘Con có việc gì lo lắng lắm hay sao?’ Đại thần thuật chuyện vua buộc phải tìm văn kinh Bát quan trai.

“Người cha liền nói: ‘Cha thường nhìn thấy cây cột nhà ta có ánh hào quang tỏa ra. Nay con nên đập phá ra mà xem thử. Cha nghĩ là có vật lạ trong đó.’

“Đại thần nghe lời cha, đập cây cột nhà, liền thấy trong đó có hai quyển kinh. Một là văn kinh Thập nhị nhân duyên, hai là văn kinh Bát quan trai giới.

“Đại thần mang văn kinh Bát quan trai dâng lên vua. Vua mừng rỡ liền mang đưa cho long vương. Long vương được văn kinh rồi, vui mừng khôn xiết, liền mang rất nhiều báu vật quý giá ở chốn thủy cung mà tặng cho vua.

“Long vương trở về cùng với số rồng con, cộng cả thảy 500 người, đồng thọ phép Bát quan trai. Chuyên cần tu tập, không một mảy may sai sót, hủy phạm. Đến khi mạng chung, tất cả đều được sinh lên cảnh trời Đao-lỵ.”

Phật bảo chư tỳ-kheo: “Này các tỳ-kheo! Năm trăm vị thiên tử đêm qua đến cúng dường ta, chính là 500 con rồng ngày trước. Nhờ tinh cần tu tập Bát quan trai giới nên được phước báo sinh lên cõi trời.”

Phật thuyết nhân duyên đôi bạn đồng tu Bát quan trai giới rồi, chư tỳ-kheo trong chúng hội có người đắc quả Tu-đà-hoàn, có người đắc quả Tư-đà-hàm, có người đắc quả A-na-hàm, có người đắc quả A-La-hán, lại có nhiều người phát tâm cầu quả Phật Bích-chi, cũng có người phát tâm cầu quả vô thượng Bồ-đề.

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19685)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23947)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41202)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19676)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23971)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21741)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23290)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27488)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26541)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29300)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33165)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20178)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25754)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20902)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31285)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38535)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21413)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44234)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29804)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42165)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22124)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45719)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32096)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23942)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24375)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29237)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33897)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27665)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32114)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21055)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28836)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21554)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28041)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22053)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21416)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19483)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19456)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19818)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19228)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29161)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20606)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28271)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23634)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33160)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31827)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21362)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39603)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21540)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19362)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26364)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24806)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21741)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22365)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29121)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22548)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20458)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23501)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21226)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35285)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24537)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant