Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

88. Ông vua hiếu chiến

03 Tháng Ba 201100:00(Xem: 9760)
88. Ông vua hiếu chiến

MỘT TRĂM BÀI KINH PHẬT
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

PHẨM THỨ CHÍN: CÁC VỊ THANH VĂN

ÔNG VUA HIẾU CHIẾN

Lúc ấy, Phật ở gần thành Xá-vệ, trong vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc. Về phía Nam, có một xứ tên là Kim Địa. Vua xứ ấy tên là Kế-tân. Hoàng hậu của vua thọ thai vừa sinh được một hoàng nam, cốt cách mạnh mẽ, khí lực hơn người, đặt tên là Kế-tân-ninh. Trong ngày sinh thái tử, lại có mười tám ngàn quan thuộc của vua cũng đồng thời sinh ra mười tám ngàn đứa bé trai sức lực mạnh bạo.

Thái tử dần dần khôn lớn. Đến khi vua băng hà, thái tử lên nối ngôi, liền gọi mười tám ngàn người con trai của các quan thuộc cùng sinh một ngày với mình ra phong cho làm đại thần, cùng chăm lo việc nước.

Một hôm, vua đi săn bắn dạo chơi, có quần thần đều theo hộ vệ, hỏi quần thần rằng: “Ta sinh ra khí lực hơn người, ở thế gian này liệu có ai có sức mạnh hơn ta chăng?”

Bấy giờ có người khách buôn thời hay đi xa, nhân lúc ấy cũng tháp tùng trong đoàn của vua, mới tâu lên rằng: “Dưới vùng trung đô có vị vua tên là Ba-tư-nặc, sức khỏe hơn người. So với đại vương đây, vua ấy có thể hơn xa nhiều lắm.”

Vua nghe lời nói của người khách buôn nổi giận, trong lòng bực tức không yên, liền sai sứ đến nói với vua Ba-tư-nặc rằng: “Trong vòng bảy ngày, phải mang theo các quan thuộc tùy tùng đến ra mắt ta. Nếu không, ta sẽ đến đó giết sạch cả năm họ thân tộc của nhà vua.”

Vua Ba-tư-nặc tiếp sứ rồi, vô cùng lo lắng, chưa biết vua kia sức lực thế nào mà đe dọa hung bạo đến thế. Trong lòng chưa quyết định được là có nên nghe theo lời ấy hay không, vua Ba-tư-nặc liền đến chỗ Phật mà thưa hỏi. Phật dạy rằng: “Ngươi chớ nên lo lắng. Hãy về nói với sứ giả ấy rằng: Tôi đây chỉ là vua nhỏ, còn có vị vua lớn hơn ở tại Kỳ Hoàn, ông nên đến đó mà truyền lệnh của vua ông.”

Sứ giả của vua Kế-tân-ninh nghe vậy liền thẳng đến Kỳ Hoàn. Khi ấy, đức Phật hóa hiện thành một vị Chuyển Luân Thánh Vương, sai Đại Mục-kiền-liên hóa hiện trùng trùng binh tướng, cờ xí nghiêm mật, đóng quanh Kỳ Hoàn. Trong điện lớn, Chuyển Luân Thánh Vương ngự trên ngôi cao chót vót, có quần thần xếp hai hàng dài đứng hầu, oai nghiêm tột bực.

Vị sứ giả nhìn thấy quang cảnh Kỳ Hoàn như vậy rồi, liền toát mồ hôi trán, trong lòng run sợ, kinh khiếp, tự nghĩ rằng: “Vua ta tự dưng rước họa vào thân rồi!” Bất đắc dĩ đã vào đến điện ngọc, phải dâng thư của vua Kế-tân-ninh lên.

Chuyển Luân Thánh Vương nhận thư rồi, chẳng thèm xem đến, ném xuống chân mà đạp lên, bảo sứ giả rằng: “Ta lên ngôi đại vương, quản lãnh bốn phương. Nay ngươi phải nhanh chóng mà về truyền lại lời ta với chủ ngươi. Ngay trong ngày nhận được tin này, phải gấp rút lên đường đến ra mắt ta, không được chậm trễ. Khi lệnh ta truyền đến, nếu đang nằm phải mau ngồi dậy, nếu đang ngồi phải mau đứng dậy, nếu đang đứng phải tức khắc lên đường. Ta hạn cho chỉ trong bảy ngày, vua tôi và triều thần đều phải đến đây triều bái. Nếu trái lời ta, đừng mong xá tội.”

Sứ giả trở về, như thật trình bày, truyền đạt đúng lời đã nghe. Vua Kế-tân-ninh nghe rồi hoảng sợ, trong lòng vô cùng hối hận, tự trách lấy mình, liền triệu tập quần thần ba mươi sáu ngàn người, tức tốc lên đường triều bái. Trên đường đi, lòng cũng chưa yên, sai sứ hỏa tốc đi trước, tâu lên vua Chuyển Luân rằng: “Vua Kế-tân-ninh đã đến triều kiến, cả thảy ba mươi sáu ngàn người đi theo, có nên vào cả chăng?” Vua Chuyển Luân bảo: “Cho vào một nửa.” Sứ giả về báo lại, vua Kế-tân-ninh liền dẫn mười tám ngàn người gấp rút mà đi.

Lễ triều bái xong, vua Kế-tân-ninh trộm nhìn lên rồi nghĩ rằng: “Vị đại vương này, hình dung tuy là oai nghiêm như vậy, nhưng sức mạnh chưa hẳn đã hơn ta.” Vua Chuyển Luân biết ý nghĩ ấy, sai người mang đến một cây cung lớn trao cho vua Kế-tân-ninh. Vua cố hết sức chẳng thể nào giương cung lên nổi.

Khi ấy, vua Chuyển Luân sai mang cung đến, ngài chỉ dùng một ngón tay mà kéo dây cung ra. Tiếp đó, ngài lắp tên vào mà bắn. Nơi đầu những mũi tên bay ra liền hóa hiện hoa sen báu, mỗi đóa hoa có một vị hóa Phật ngồi trên, phóng ra ánh hào quang sáng chói, soi khắp cùng các cõi thế giới, khiến cho hết thảy chúng sanh đều được lợi lạc.

Khi những hào quang của các vị hóa Phật chiếu ra, chư thiên tiếp nhận liền chứng đắc đạo quả; những chúng sanh trong hỏa ngục liền được mát mẻ; những chúng sanh thọ thân ngạ quỷ đói khát liền được no đủ; những chúng sanh đọa làm thân súc sanh liền thoát được những đau đớn nặng nề; những chúng sanh tham dục, sân nhuế, ngu si, phiền não, đều được điều phục, sinh lòng kính tín nơi pháp Phật.

Bấy giờ, vua Kế-tân-ninh thấy những sự hóa hiện như vậy, liền quỳ lạy vua Chuyển Luân, tâm ý được điều phục. Khi ấy, vua Chuyển Luân mới hiện lại nguyên hình Như Lai Thế Tôn, có tứ chúng hầu quanh. Phật liền vì vua Kế-tân-ninh và mười tám ngàn người theo hầu khai diễn thuyết pháp. Tất cả nghe rồi đều thấy tâm ý khai mở, đắc quả Tu-đà-hoàn, liền lễ Phật mà cầu xuất gia. Phật nói: “Lành thay đó, tỳ-kheo!” Tức thì, râu tóc tự nhiên rụng sạch, áo cà-sa hiện ra nơi thân, thành những vị tỳ-kheo oai nghi đầy đủ. Chuyên cần tu tập, chẳng bao lâu đều đắc quả A-La-hán, đủ Ba trí sáng, Sáu phép thần thông, Tám môn giải thoát, khắp cõi trời người ai gặp cũng đều kính trọng, ngưỡng mộ.

Bấy giờ, ngài A-nan thưa hỏi Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Chẳng hay vua Kế-tân-ninh và các vị tỳ-kheo này trước đây đã tạo được những thiện nghiệp gì mà nay đều được sinh trong nhà quyền thế, có sức mạnh hơn người, lại được gặp Phật, xuất gia đắc đạo?”

Phật bảo A-nan và chư tỳ-kheo: “Các ngươi hãy chú tâm lắng nghe, ta sẽ vì các ngươi mà phân biệt giảng nói. Về thuở quá khứ, xứ Ba-la-nại có vị Phật ra đời hiệu là Tỳ-bà-thi, cùng chư tỳ-kheo đi giáo hóa nhiều nơi, đến một nước tên là Bảo Điện.

“Vua nước ấy tên là Bàn-đầu-mạt-đế, nghe có Phật đến thì vui mừng hớn hở, cùng với quần thần mười tám ngàn người ra khỏi thành mà nghinh đón. Vua lễ Phật rồi thưa thỉnh xin được cúng dường Phật và chư tỳ-kheo trong ba tháng. Phật nhận lời.

“Qua ba tháng cúng dường rồi, Phật vì vua với quần thần mà thuyết pháp. Nghe pháp xong rồi, trong lòng vui mừng, cùng nhau lập nguyện rằng: ‘Nhờ công đức cúng dường hôm nay, nguyện trong đời vị lai mười tám ngàn người chúng tôi cùng với đại vương đây được sinh ra ở cùng một nơi, lại trong cùng một ngày.’

“Do công đức cúng dườngnguyện lực ấy, trải qua vô số kiếp đều không đọa vào các nẻo dữ, trong cõi trời người đều được sinh ra cùng một chỗ, lại cùng một ngày với nhau, cùng hưởng những điều khoái lạc, vui thú. Cho đến ngày nay gặp Phật, xuất gia đắc đạo.”

Phật lại dạy rằng: “Vua Bàn-đầu-mạt-đế thuở ấy, nay là vua Kế-tân-ninh. Quần thần ngày ấy, nay là mười tám ngàn vị tỳ-kheo đó.”

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19706)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23965)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41222)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19700)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23999)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21748)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23314)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27509)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26577)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29319)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33200)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20202)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25784)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20918)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31325)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38580)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21445)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44265)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29834)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42221)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22142)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45769)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32115)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23961)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24393)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29283)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33924)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27684)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32138)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21067)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28857)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21587)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28068)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22075)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21442)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19503)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19471)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19837)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19256)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29194)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20627)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28305)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23651)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33193)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31844)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21379)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39631)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21554)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19382)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26400)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24833)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21759)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22397)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29136)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22561)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20471)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23521)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21241)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35330)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24548)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant