Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương III: Thiền Định Luận

01 Tháng Mười 201000:00(Xem: 12198)
Chương III: Thiền Định Luận


Chương III: Thiền Định Luận

1- GỢI ĐỀ.

Yếu lĩnh của sự tu đạo tuy là giới, định, tuệ quân bình, nhưng trong đó, như đã nói ở trên, điểm có ý nghĩa trọng yếu hơn cả là thiền định. Nếu đứng ở một phương diệnnhận xét thì giới, định, tuệ tuy là quan hệ chân vạc, nhưng nhận xétphương diện khác thì chúng lại là quan hệ giai đoạn hỗ tương. Giới chủ yếu là chuẩn bị để được tuệ. điều này cứ xem trong Thanh Tịnh Đạo luận nói do giới mà vượt ác thú, do định mà thoát khỏi Dục giới và do tuệ mà siêu tam giới thì đủ rõ (Vism, p..). Tựu trung, định không những chỉ ở giữa mà còn khoáng trương cả hai bên, tức là tuệ siêu việt tam giới, ý nghĩa định phát tuệ thật ra cũng không ngoài sức định. Bởi vậy, ta có thể nói, trung tâm tu đạo là định. Phật giáo không lập nên một đấng Thần linh mà trước sau vẫn chỉ lấy tâm làm trung, và cái khế cơ điểm vể tôn giáo trong Phật giáo chủ yếu là ở sự tu dưỡng thiền định, đó là điểm chúng ta cần ghi nhận. Song, sự tu dưỡng thiền định này, theo một ý nghĩa nào đó, không những chỉ riêng cho Đại thừa, Tiểu thừa mà bất luận học phái nào đều lấy định làm căn để cho sự tu dưỡng, có thể nói, nêu xa lìa thiền định thì Phật giáo không còn là Phật giáo nữa. Bởi thế, chuyên lấy ẩn tuẫn làm ý chỉ, do tâm thanh tịnh vắng lặngđược giải thoát, sự tu đạo từ Nguyên thủy Phật giáo đến Tiểu thừa Phật giáo đều lấy thiền định làm nền tảng cho tất cả sự tu đạo: điều này, tưởng cũng không có gì là lạ cả. Nếu bảo cái thật thể của các tôn giáo hữu thần là ở như sự cấu đảo, thì ta có thể nói thật thể của Phật giáo là ở như thiền.

2- THIỀN QUÁN VỚI TỨ ĐẾ VÀ 12 NHÂN DUYÊN.

Trưng theo giáo lý, như đã thường lập đi lập lại ở trên, Phật giáo nói nhiều giáo tướng, như nhân sinh quan, thế giới quan, thực tiễn quan v.v… tuy triển khai dần dần, nhưng chỗ quy kết thì có thể nói tất cả đều phát xuất từ thiền. Vì thế mà trong các thực tiễn quan, thiền có một ý nghĩa trong yếu nhất. Đương nhiên, mới nhìn qua thì thay vì nói là Thiền quán lại nhận là phương thức thuyết minh sự thực và lý tưởng mà thiền chính là căn để của phương thức đó: đây là điểm ta không thể bỏ qua, Như Tứ đế, 12 Nhân duyên, Tứ niệm xứ lấy đó làm hình thức thuyết minh. Tứ đế thuyết minh nhân quả giải thoátluân hồi; 12 nhân duyên cho thấy do thuận quan mà luân hồi, do nghịch quan mà giải thoát; còn Tứ niệm xứ đối với sự tồn tại của người ta mà phám đoán theo hai phương diện sự thực và giá trị. Song, đây không phải là sự phán đoán lý luận, mà là sự phán đoán thiền quán, không những thế, bất luận là Tứ đế, 12 nhân duyên hay Tứ niệm xứ, khi tu hành thiền quán thì tất cả đều là một loại công án. Thêm vào đó sự phân loại Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới, nếu nhận xét theo tinh thần đó thì, nhưng đã nói nhiều lần, chẳng qua cũng chỉ để thích ứng với thái độ tinh thần tu thiền mà thôi. Lại nữa, Phật giáo hay nói đến những tổ chức sinh lýcuối cùng thì cũng không ngoài cái thủ đoạn đem ứng dụng chúng vào thiền quán (như Bất tịnh quán chẳng hạn). Cứ như thế mà tham cứu thì ta thấy giáo lý của Phật giáo dù có thuyết minh bằng thái độ nào đi nữa, nhưng tất cả đều có thể quy kết ở thiền quán, vì, nếu không hiểu được thiền quán thì quyết không thể nắm được cái chân lý của Phật giáo: tôi tưởng đây không phải là lời nói quá đáng. Theo ý nghĩa ấy, sự phát đạt của giáo lý Phật giáo chẳng qua cũng chỉ là sự phát đạt và biến thiên của thiền quán, Rốt cục, do thiền quántrạng thái tinh thần đạt đến nguyên lý hóa, hiện tại hóa, rồi lấy đó làm cơ sở, đem những thuyết minhthực tiễn pháp thành lập tổ chức: đó là sự biến thiên của nền giáo lý Phật giáo. Lại nữa, cũng là Phật giáo nhưng được chia thành nhiều Khế cơ điểm. Nhất là muốn hiểu rõ Phật giáo Đại thừa thì người ta không thể không nhớ kỹ điều này.

3- Ý NGHĨA THIỀN ĐỊNH.

Phật giáo là một tôn giáo lấy thiền làm trung tâm thành lập, có rất nhiếu ký lục về thiền, đồng thời, cũng có nhiều cách để biểu diễn thuật ngữ thiền. Về phương diện tổng luận, tôi tưởng trước hết hãy nói về bản chất của thiền. Nói một cách đại thể, thiền của Phật giáo chẳng có gì sai khác với phương pháp tu dưỡng nhất ban của Ấn Độ thời bấy giờ mà người ta mệnh danh là Du Già, Tam Ma Địa. Không những thế, thiền của Phật giáo chính cũng đã thoát hóa từ những phương pháp tu dưỡng ấy, điều này tôi đã trình bày ở một nơi khác rồi. Do đó, về phương diện bản chất của thiền - mặc dù về phương pháp hay nội dung quan niệm có chỗ bất đồng – cũng chẳng có gì sai biệt với sự tu dưỡng nhất ban Du Già. Chủ yếu, cột tâm vào một chỗ[1], thống nhất các biều tượng, cuối cùng phải đến chỗ vô niệm, vô tưởng: đó là tu định. Theo ý nghĩa ấy thì đặc chất của định rõ ràngtiêu cực chế chỉ sự tán loạn của tâm, Nhưng, mục đích của sự tu định không những chỉ tiêu cực trấn áp tán loạn nội tâm mà còn, đồng thời với sự trấn áp ấy, dồn hết tâm lực vào một điểm, dựa trên sự quan sát triệt để một đối tượng nào đó khiền cho chình mình, cuối cùng, cũng hòa với đồi tượng ấy làm một; đứng về phương diện này thì tu định có mục đích tích cực: đó là điểm chúng ta cần ghi nhận. Có thể nói, mục tiêu tu định là ở điểm này. Thiền có hai phương diện tuy cùng gọi là thiền, là định – phân biệt về nội dung – nhưng trong đó bao hàm nhiều tâm thái, và; để biểu đạt những tâm thái đó, đã sản sinh ra nhiều thuật ngữ, đây là lẽ tự nhiên.

Trưng theo kinh Du Già thì có những thuật ngữ như Du Già, Tam ma địa, Tam ma bát đề, Đà diễn na và Tha lạp na v.v… và ý nghĩa của mỗi thuật ngữ, không nhiều thì ít, có chỗ sai khác. Trong Phật giáo cũng có nhiều thuật ngữ, phổ thông thường nói là bảy tên của định (Du già sư địa luận lược biên, quyển 5, Đại chính, 43, trang 66 trở đi. (Câu xá, quyển 28). Dó là nói vể khởi nguyên, về sau, trong sự hỗ tương, tuy không khu biệt một cách chặt chẽ, nhưng đến A-tỳ-đạt-ma, vốn ưa thích nghiêm cách hóa tất cả tựa hồ đã khu biệt nó môt cách rất chặt chẽ. Sau đây là những danh xưng:

a- Tam-ma-thả-đa (đẳng dẫn) hai định dùng cho cả hữu tâmvô tâm.

b- Tam-ma-địa (Tam muội, đẳng trì): lấy tính tâm nhất cánh làm đặc chất, chỉ dùng cho định hữu tâm.

c- Tam-ma-bát-để (đẳng chí): thông cả hữu tâm, vô tâm thường được xưng tổng quát là Tứ thiền, Tứ vô sắc định.

d- Đà-diễn-na, Thiền na (Tĩnh lự): tuy đặc biệt chỉ dùng cho từ thiền định, nhưng đến Đại thừa nó đã trở thành tên chung cho tất cả thiền định, thiền trong thiền định là chữ ihàna (thiền na) mà ra.

đ- Chất-đa-y-ca-a-yết-la-đa; tâm nhất cảnh tính, chỉ dùng cho hữu tâm định, đại lược đồng nghĩa với Tam-ma-địa.

e- Xa-ma-tha (chỉ): danh từ này được dùng song song với Tỳ-bát-xà-na (quán). Đối với tác dụng tích cực quán tưởng, nó là tác dụng tiêu cực chuyên làm cho tâm chìm lắng xuống. Đây cũng chỉ cho hữu tâm định thôi.

g- Hiện-pháp-lạc-trụ: trong Tứ thiền, đặc biệt là vào trạng thái căn bản định, duy chỉ có Thánh tâm.

Những danh từ trên đây, như vừa nói ở trước, khi được dùng một cách mặc nhiên thì không phân biệt chặt chẽ, nhưng về phương diện A-tỳ-đạt-ma, khi chúng được dùng một cách nghiêm khắc, thì cái phạm vi của bảy danh từ kể trên, nếu nói một cách đại lược, thì đã từ phạm vi rộng nhất dần dần biểu hiện tâm thái đặc thù ở phạm vi hẹp. Song, một danh từ chung đó đại biều cho thiền định của Phật giáo, là Tam-ma-địa. Dứng về phương diện Du Già sử mà nhận xét, trong Áo Nghĩa Thư cổ xưa, danh từ vẫn chưa thấy được biểu hiện, đến thời đại học phái nó mới bắt đầu được dùng làm thuật ngữ. Nhưng, trong Phật giáo, nó được thu dụng ngay từ đầu, bởi thế, khi muốn nói đến thiền định, người ta luôn luôn dùng danh từ này. Nói một cách đơn giản, Chính định trong Bát chính đạo, định Ngũ căn, Ngũ lực, tất cả đều được biểu hiện bằng một danh từ Tam-ma-địa. Danh từ này do tiếng sam + v- dha. Cái gọi là trị tâm nhất xứ (giữ tâm ở một chỗ) tức là ý nghĩa tổng trì hay đẳng trì vậy. Tâm thái biểu hiện thiện định một cách thật thích đáng đại khái đã từ đây để rồi đã đi đến cách dùng rất rộng rãi.

Phật Âm, trong A-tha-sa-lị-noa (pp. 118-9), đã giải thích Tam-ma-địa như sau:

“Làm cho tâm chuyên chú vào một cảnh, đặc tướng của nó là không động loạn, không trạo cử, tác dụng của nó là kết hợp các pháp cùng sinh (tâm, tâm sở) vào một chỗ, cũng như nước rửa, biểu hiện của nó là lấy tĩnh tâm làm phát sinh trí tuệ. Vì có tĩnh tâm mới thấy rõ chân lý, bởi thế, chỉ lấy sự vui làm chỗ lập cước. Tóm lại, khi không có gió thì đèn đứng ngay,tâm được đứng vững là nhờ Tam muội, người ta cần ghi nhớ điều đó” (Rhys Davids; Yogàvacàras Manua of Indian Mysticism as Practicsd by Buddhists London 1896, p. XXVI, trích dụng).

Trên đây, có thể nói, là sự giải thích gần thỏa đáng.

4- KHÓA ĐỀ THIỀN ĐỊNH.

Bản chất của thiền định là như thế, nhưng khi luận cứu về vấn đề này thì nên chia thành mấy bộ môn cho đúng? Muốn thuyết minh điểm này, trước hết phải nói rõ về mục đích tu thiền đã. Nói một cách tóm tắt thì mục đích tối cao của sự tu thiền là ở như sự giải thoát nhưng ngoài mục đích chính đó ra, tu thiền cũng cón có những mục đích phụ nữa mà, nếu muốn luận cứu về thiền, tất cũng phải xem chúng như những khóa đề để khảo sát. A-tỳ-đạt-ma chia mục đích tu thiền thành ba hay bốn loại, nhưng lấy bốn làm thông lệ: Thứ nhất, là đắc hiện pháp lạc trụ; Thứ hai, đắc thắng trí kiến; Thứ ba, đắc phân biệt tuệ; Thứ tư, là tận chư phiền não (lậu tận) (Câu xá, quyển 28; Thành Thật, quyển 12, Từ tu định phẩm 158 cũng giống nhau). Thứ nhất hiện pháp lạc trụ có nghĩa là nhờ tu định mà thân tâm được an tĩnh; thứ hai thắng trí kiến nghĩa là được thần thông; thứ ba phân biệt được tuệ tức là thấy được tính, tướng của các pháp như thế; thứ tư lậu tận đã được giải thoát tối cao. Xem thế thì bốn điểm trên đây là khóa đề của Thiền na và nếu cứ lấy đó mà luận về Thiền quán một cách tổ hợp cũng được, nhưng, thật ra bốn điểm trên chủ yếu là dựa vào công đức tu thiền mà đưa ra số mục, bởi vậy, nếu thuyết minh về cái gọi là thiền mà chỉ có thế thôi thì chưa đủ. Về điểm này, tôi đã nói qua một nơi khác,[2] Nếu muốn luận cứu một cách có căn bản về nhất ban thiền thì những mục sau đây cần phải được lưu ý. Thứ nhất là tâm lý quan; yếu nghĩa của thiền là làm cho tâm chuyên chú vào một cảnh. Nếu xử lý tâm như thế nào? Đó là vấn đề tiên quyết. Trong đề mục Tâm lý luận Phật giáo mà tôi đã trình bày ở trên có một khóa trình nói về Thiền định tâmlý luận chính cũng ở đó. Trước khi bàn về Thiền định tâm lý luận, phải nói qua tâm lý luận nhất ban, đó là một đề mục của Thiền định luận. Thứ hai là lý tưởng luận: làm thế nào để do thiền mà đạt được lý tưởng tối cao? Nội dung của thiền, trên quan hệ quy định, nếu không phải là lý tưởng luận thì thiền không thể được thành lập; thứ ba là phương pháp luận: làm thế nào cho tâm được thống nhất để thực hiện lý tưởng, đó là phương pháp thực tiễn mà, theo một ý nghĩa nào đó, là vấn đề trung tâm của thiền; thứ tư là thần thông và những yếu tố khác: đây là dựa vào công đức của thiền mà nói chứ chưa hẳn đã là mục đích tối cao của thiền. Bất luận trong hiện tại, quá khứ, dựa vào kiện khang pháp, an tĩnh pháp cho đến sức bất khả tư gnhị của thiền, nếu cho đó là một mục đích tu dưỡng của thiền, thì đó phải đặt thành một đề mục khác để luận cứu.Hình thức Thiền định luận được chỉnh lý ít nhất phải có bốn đề mục này, nhưng ở đây, trong Tâm lý luận nhất ban của Phật giáo đã bàn qua rồi. Còn lý tưởng luận nên việc bàn riêng với thiền luận, về thần thông lực cũng là một bộ phận của tuệ, tưởng cũng phải nên luận cứu một cach thích đáng, vậy, rốt cục, chỉ cón lại có phương pháp luận mà thôi. Song, phương pháp luận trong trường hợp Phật giáo, không những là phương pháp bề ngoài mà còn bao hàm ý nghĩa dùng công án với Thiền quán như thế nào cho thích ứng. Bởi thế, theo ý nghĩa ấy, phương pháp luận lại có thể chia thành hai đề mục: một là phương pháp bề ngoài, hai là phương pháp nội dung. Phương pháp trước, khi nhập định, luận về những dụng ý bên ngoài (cũng có hơi đề cập đến nội dung); còn phương pháp thứ hai nên chuyên luận về nội dung của pháp quan. Như vậy, tập hợp tất cả ý nghĩa ấy để lại nói rõ ý nghĩa Cửu thứ đệ định thì phải đề cập đến tất cả nghị luận của A-tỳ-đạt-ma và, như vậy, vấn đề nói ra sẽ cực kỳ phiền tỏa, bởi thế, ở đây, tôi xin kết thúc chương này (Thiền định luận).


[1] Về điểm này, có vài định nghĩa rõ ràng, giản dị nhất: 1- Tâm trụ một chỗ là tướng tam muội Thành Thật, quyển 12, Định nhân phẩm 155), 2- Định có nghĩa là thanh tịnh, có công đức tinh tiếntịch tĩnh thật yên tĩnh, không tán loạn, gọi là định (Giải thoát đạo luận, quyển 2, Phân biệt định phẩm 4, Đại chính, 32, tr. 406, ha), 3- Định nghĩa là khéo ở vào một cảnh (Câu xá, quyển 28).

[2] Xem bài khảo sát về sự triển khai của tư tưởng Phật giáo với Thiền trong mục “Từ Chân không đến Diệu hữu).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19841)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28951)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20682)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19415)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30484)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36417)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33204)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35540)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20967)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21911)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25252)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25786)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31238)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18552)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25134)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23762)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28925)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20854)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31444)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25543)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29719)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22513)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25708)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23268)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25733)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23717)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40597)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23346)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22442)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22088)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23500)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16957)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23282)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24303)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41091)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18975)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20472)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27720)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38112)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34060)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36783)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 23989)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29174)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60130)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27600)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68719)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24509)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24474)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22682)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26349)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26522)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20815)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20047)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27547)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46412)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53572)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23594)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21082)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25557)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29247)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant