Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương II: Nguyên Tắc Tu Đạo Với Giới Định Tuệ

01 Tháng Mười 201000:00(Xem: 13026)
Chương II: Nguyên Tắc Tu Đạo Với Giới Định Tuệ


Chương II: Nguyên Tắc Tu Đạo Với Giới Định Tuệ

1- QUAN HỆ GIỮA TU ĐẠOTAM HỌC.

Về đức mục tu đạo, tuy có nhiều, nhưng chủ yếu thì không ngoài Tam học giới, định, tuệ. Từ đây, tôi tưởng nên trình bày qua về Tam học (nhưng, về giới, đặc biệt về luật, đã nói trong thiên trước rồi, nên ở đây không đề cập đến nữa). Trước hết hãy nhận xét về tổng thể của Tam học. Sự quan hệ giữa nguyên tắc căn bản của Tu đạo luận như thế nào? Tôi tưởng phải thuyết minh cái quan hệ tất nhiên bất ly giữa Tu đạoTam học. Tam học của Phật giáo không phải chỉ là chia làm ba để tiện cho phương pháp tu dưỡng, nhưng trong đó giáo lý căn bản và tổ chức nhân sinh có sự liên quan mật thiết.

Theo Phật giáo, sự sinh hoạt của chúng ta lấy dục làm cơ sở để thành lập, ngã chấp, ngã dục là nền tảng của sự sinh tồn. Như đã nói nhiều lần, trong cái căn bản của ngã chấp, ngã dục ấy có yêu cầu sinh mệnh vô hạn mà, như đã trình bày qua, tuy được gọi là tâm tính bản tịnh, nhưng về phương diện một hiện tượng thì sự sinh hoạt của chúng ta do vô minhái dục chi phối; đó là quan điểm nhất ban của Phật giáo. Như trước đã nói, người ta có nghiệp tập từ vô thủy, tự nhiên phải theo hạn định dự trước, người ta tuy sống nhưng được quy định bởi tính tích hay cảnh ngộ mà trong đó đặc trưng của sinh mệnh không thể không phát hiện hoạt động tự phát được. Cái lý do tại sao Phật giáo cho thế giới này là khổ là do sự sợ hãi tự nhiên về khổ khổ, hoại khổhành khổ như trên kia đã nói, tuy ở lực chi phối nhưng trong đó đã mang đầy đủ nghiệp tập tự nhiên ràng buộc mất tự do (đại khái được gọi là hành khổ), phương pháp để giải thoát khỏi sự ràng buộc tự nhiên từ cả bên trong lẫn cả bên ngoài ấy mà đạt đến tự do chân chính, ta không thể tìm kiếm ở bên ngoài mà phải tâm cầu bên trong, nếu nói một cách đơn giản thì đó là sự cải tạo tinh thần của ta, đây không những là con đường giải thoát duy nhất; mà là con đường tắt tất nhiên: có thể nói, đó là chú ý nhất quán của Phật giáo. Theo Phật giáo thì sức ép thiên nhiên có thể được cải tạo, nhưng phải rất từ từ chứ không gấp rút được. Trái lại, tâm người ta, trên thực tế, thật vô cùng khó khăn nếu không có một ý chí kiên quyếtcố gắng không ngừng thì không thể nào cải tạo được nó một cách triệt để. Đây chính là lý do tại sao Phật giáo, nhận xét về phương diện giá trị, chủ trương thế giới là sản phẩm của tâm, bất luận mê hay ngộ, tất cả đều do nơi tâm. Về điểm này, xin trích mấy câu kinh văn để chứng minh:

Xe do các nghiệp mà khởi, tâm thức quay với xe, theo nhân mà chuyển đến, hễ nhân hoại thì sẽ diệt – Tạp-a-hàm, Kinh 49 (Đại chính, 2, trang 356, cột dưới).

Tâm mang thế gian đi, tân dẫn thế gian đến, chỉ có tâm là thể chế ngự được thế gian – Tạp-a-hàm, Kinh 36 (Đại chính, 2, trang 264, thượng).

Tâm là căn bản, tâm sai tâm khiến, trong tâm nghĩ ác thì tức làm ác, tội khổ đuổi theo cũng như bánh xe quay theo trục xe. Tâm là căn bản, tâm sai tâm khiến, trong tâm nghĩ thiện thì tức tâm thiện, hạnh phúc đi theo cũng như bóng theo hình – Xá-lợi-phất-a-tỳ-đàm luận, quyển 15 (Đại chính, 28, trang 628, trung).

2- TUỆ HỌC.

Đến đây, vấn đề được nêu lên là: làm thế nào để cải tạo tâm một cách triệt để? Ở đây, phát sinh tác dụngtam học Giới, Định, Tuệ.

Để cải tạo tâm, trước hết không thể không biết rõ sự thự hiện tại. Nói một cách khác, đồng thời với cảm giác thống khổ mất tự do, phải thức tỉnh tinh thần mong cầu lý tưởng vĩnh viễn bất động. Phật giáo nói đến như thực tri kiếnbát nhã rốt ráo không ngoài ý nghĩa đó. Phật giáo sở dĩ được coi là một tôn giáo trọng trí tuệ nhất trong các tôn giáo là vì Phật giáo lấy sự tự giác chân chính làm trọng yếu. Bởi thế, mà trí tuệ kể là một trong Tam học. Song, có điều quan trọng là chúng ta đừng lầm lẫn trí tuệ ở đây với trí thức do học vấn. Phật giáo, đặc biệt đến A-tỳ-đạt-ma, như đã trình bày ở trên, tuy rất giàu thuyết minh tri thức học vấn, nhưng đó thật ra chỉ là phương tiện để đạt đến trí chứ không có một nhiệm vụ tất nhiên nào cả. Trí tuệ của Phật giáo có nghĩa là trí phán đoán cuộc đờivô giá trị, đầu đau khổ, và tin chắc chắn vào giá trị của giải thoát Niết bàn: đó là điều chúng ta cần ghi nhận (về sau, kinh Bát nhã lấy không làm đối tượng của trí tuệ chính cũng từ đây mà ra). Theo ý nghĩa ấy, Phật giáo trên đại thể, có thể nói bao hàm khuynh hướng chủ trí chủ nghĩahợp lý chủ nghĩa. Nhưng, nếu cho Phật giáochủ nghĩa hợp lý, và chủ nghĩa chủ trí thì lại là một sai lầm lớn, bởi lẽ, trong trí tuệ của Phật giáo còn bao hàm cả phán đoán tình ý, cho nên, trọng trí tuệ mà không bỏ qua tình tình ý.

3- BA TUỆ VĂN, TƯ, TU.

Song, làm thế nào để nuôi thành trí tuệ đó? Theo Phật giáo, trí tuệ có nhiều giai đoạn, phải dần dần và theo thứ tự mà tiến sâu vào. đầu tiên phát tâm cũng do trí tuệcuối cùng được giải thoát cũng lại do trí tuệ. Về điểm này tôi xin nói sau, ở đây, hiện đang bàn về vấn đề tu dưỡng, và trên đại cương, có thể chia tuệ làm ba giai đoạn, tức là ba tuệ văn, tư, tu. Trong luận Thành Thật, quyển 16, phẩm Tam tuệ 194, lấy nó làm một đề mục độc lập để luân cứu; trong Câu xá, quyển 22, thì nó làm phương tiện để vào kiến đạo. Đương nhiên, đây chưa hẳn đã là cách phân loại đặc hữu của Phật giáo. Trong kinh Du Già (Yogasutra I, 48), cũng nói “Do thánh giáo lượng, tỷ lượng và nhiệt liệt tu tập thiền định, do ba thứ đó mà hành giả được trí tuệ, được vô thượng Du già”. Cứ theo chú giải của Vi Da Xá thì câu đó vì là truyền thuyết được dẫn dụng cho nên được thừa nhậnphương pháp đạt đến trí tuệ cần thiết cho tất cả hạng người tu hành, nhưng trong Phật giáo, sự phân loại này, ít ra cũng có một ý nghĩa rất trọng yếu.

Tựu trung, cái gọi là văn tuệ, như Thành-thật-luận nói, chỉ là cho trí tuệ phát sinh các Tu Đa La. Nếu nói một cách đơn giản thì đó là trí tuệ do nghe mà hiểu được nghĩa lý của điều mình nghe mà có. Trong tất cả trí tuệ, đây tuy là nông cạn nhất, nhưng, về phương diện tu dưỡng nhập môn trong Phật giáo, sự xuất hiện của nó được coi là rất trọng yếu. Vì văn tuệ ở đây không phải hàm ý tất cả học vấn thuộc về tai, nhưng tất phải là văn tuệ của Phật giáo. Theo ý nghĩa ấy, Thành-thật-luận trích lời trong kinh nói: “nghe các kinh điển của Vi Đà của thế tục vì không thể sinh trí tuệ vô lậu nên không thể gọi là văn tuệ” (Tam tuệ phẩm 194). Đệ tử của Phật được xưng là Thanh văn rốt cục cũng không ngoài ý nghĩa đó. Bởi vậy, ta có thể giải thích văn tuệ trong Phật giáo đã bao hàm ý thức tín ngưỡng Tam bảo, tức niềm tin vững chắc cho rằng duy chỉ có Phật, Pháp, Tăng là điểm tựa chân chính cho việc cầu giải thoát. Do đó, nếu đứng về phương diện tiêu cực mà nói, ngoài Phật giáo ra, tất cả kinh điển, chế đagiáo pháp khác, trên căn bản, không có sức cải tạo con người. Trên thực tế, so với các nơi Đại thừa Phật giáo thịnh hành, tại những xứ mà Thanh văn thừa (Tiểu thừa) được truyền bá, người ta thấy rất ít yếu tố khác xâm nhập Phật giáo, và nền Phật giáo tại các nơi đó được bảo trì một cách thuần tịnh, có thể nói, cũng nhờ ở ý thức tín ngưỡng trên. Đối với ý nghĩagiá trị của văn tuệ, chúng ta cần phải đặc biệt chú ý. Tóm lại, nếu muốn từ Phật giáo để rút ra một sự phán đoán chính xác về đời người, thì điều kiện tiên quyết là phải hiểu rõ nghĩa lý trong các giáo phái được ghi chép trong kinh điển hay trực tiếp nghe Phật dạy.

Nghe chính pháp mà hiểu một cách chính xác và nếu chỉ ghi nhớ trong đầu óc không thôi thì rốt cục nó cũng chỉ là tri thức, không giúp ích cho tâm linh con người. Muốn cải tâm tất phải sinh hoạt hóa chính pháp, tức là phải sống theo chính pháp. Mà cái phương pháp sinh hoạt hóa chính pháp được đưa ra là hai loại tu tuệ và tư tuệ tiếp sau văn tuệ. Tư tuệ có nghĩa là nghiền ngẫm những điều mình đã được nghe để xác định nghĩa lý của nó. Bà sa, quyển 42 (Đại chính, 27, trang 217, trung), nói: văn tuệ chủ yếu là nơi câu văn, tư tuệ tuy cũng do văn nhưng lại đặt nặng ở nghĩa (tham chiếu Câu xá, quyển 22). Lại tiến lên bước nữa, bỏ văn theo nghĩa mà sự quy định sinh hoạt nội tâm của người ta là tu tuệ, mà trên phương diện pháp tướng của A-tỳ-đạt-ma, chủ yếu là do thiền định mới có thể đạt được. Đến tu tuệ thì trí tuệ mới triệt để đến tâm linh, bởi thế, cái cực trí của tu tuệ là tâm giải thoát[1] (nghĩa là thoát dục), tuệ giải thoát (nghĩa là thoát vô minh), cuối cùng trở thành đại tự giác tận trívô sinh trí.

4- ĐỊNH HỌC.

Muốn đưa tu tuệ tiếp tục tiến lên, thì không phải chỉ dựa vào sự hoạt động cân não hay tác dụng quan niệm là đủ, mà thật ra, phải đợi đến năng lực thiền địnhthực hành mới có thể tiến lên được. Trong việc sinh hoạt hóa tư tưởng, mà tư tưởng lại phải do hành vi để tiến tới cụ thể hóa. Như vậy là ở đây, cuối cùng phải có công phu dung hóa tư tưởngcông phu làm cho hành vi đi đến cụ thể hóa. Cái phương pháp dung hòa tư tưởngthiền định, còn quy định hành quy để đi đến cụ thể hóagiới luật. Tựu trung, thiền định như sẽ trình bày sau, về phương diện tiêu cực thâm cảm sự tồn tạivô giá trị, ức chế ngã chấp, ngã dục; còn về phương diện tích cực thì lấy sự tự do giải phóng sinh hoạt tinh thần làm tổ chức. Theo đồ thức ấy, một mặt ức chế cảm giác, mặt khác nhờ sức tập trung tinh thần để cải tạo sự sinh hoạt của người ta. Có thể nói, phương pháp này là căn bản trong tất cả phương pháphành đạo của Phật giáo và thông cả Đại, Tiểu thừa, không miột giáo lý nào trong Phật giáo được thành lập ngoài thiền. Nhất là Tiểu thừa giáo, vì xấy dựng trên cái gọi là tự lực chủ nghĩa, nên, nếu rời xa thiền thì tất cả chỉ còn một lý luân suông. Theo ý nghĩa ấy, tôi cho rằng, nếu rời xa thiền thì không có tuệ là tất nhiên, nhưng đồng thời cũng không có giới nữa.

5- GIỚI HỌC.

Như vậy thì giới hạnh chẳng qua chỉ là sản phẩm phụ thuộc của thiền thôi sao? Không phải thế. Vì đứng ở một phương diện mà nói, nếu xa lìa tuệ và thiền thì giới hạnh chỉ là hình thức, nhưng đứng ở phương diện khác mà nói, nếu không thực hành giới hạnh thì tuệ và thiền không thể được hoàn thành; đồng thời nhờ thực hành giới hạnh mà tuệ và thiền mới trở nên thuần chân, bởi thế, giới hạnh quyết không thể được coi nhẹ hơn tuệ và thiền. Không những thế, nếu khảo sát xa hơn chút nữa, thì tuệ và thiền không khỏi có tính cách cá nhân, còn giới hạnh, bất luận theo ý nghĩa nào đều có tính xã hội, vì mỗi cử động của người giữ giớiảnh hưởng rất lớn đối với xã hội, về quan hệ, ít ra là về mặt thực tế, nói theo một ý nghĩa nào đó, giới hạnh, so với thiền, tuệ, có ý nghĩa rất trọng yếu, đây là điểm chúng ta cần ghi nhận. Cái lý do tại sao Phật giáo đồ nguyên thủy tuy coi coi trọng thiền, tuệ, nhưng cũng nhiệt liệt thảo luận về giới luật chính là ở đó. Theo ý nghĩa ấy thì tuệ và thiền cần phải có giới mới được hoàn thành, nếu xa rời giới hạnh thì thiền và tuệ không thể coi là hoàn toàn.

6- SỰ QUAN HỆ HỖ TƯƠNG GIỮA TAM HỌC.

Tam học giới, định, tuệ, về mặt biểu diện, tuy thuộc những phạm trù khác nhau, nhưng về phương diện căn bản cải tạo sự sinh hoạt của người ta, thì chúng có quan hệ rất mật thiết, hay có thể nói, là quan hệ nhân duyên mà các bậc cổ đức thường ví như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một chân không đứng được. Tức là, muốn hoàn thành tuệ tất phải dự tưởng thiền và giới hạnh; cũng thế, muốn cho giới được hoàn thành tuệ tất phải dự tưởng thiền và tuệ, nếu không, sẽ chẳng thể nào đạt đến giải thoát hoàn toàn. Đây không phải chỉ là chủ trương của Phật giáo chính thống mà ngay đến Phật giáo bộ phái cũng không có gì thay đổi. Đương nhiên, cứ theo văn tựnhận xét Tam học thì đó là phương châm lý tưởng để tu đạo, thể hiện tam vị nhất thể, nhưng, trên thực tế, từ thời đại Phật giáo nguyên thủy đã do ý kiến nhiều người mà có ít nhiều điểm bất đồng. Cũng vì thế mà đã sản sinh ra khuynh hướng các nhà chuyên môn (như Tu Bồ Đề[2] chuyên ở trong núi. Ưu Ba Li là nhà chuyên về luật, và A Nan thì chuyên về thiền định v.v…). Nhất là thời đại bộ phái[3] thì khuynh hướng ấy lại càng rõ rệt, rồi đến Trung Quốc, Nhật Bản thì cuối cùng đã chia thành Luật tôn, Thiền tôn, Học vấn tôn (Giáo tôn) v.v… tuy có lập ra phái, nhưng đến Phật giáo bộ phái thì, tóm lại, lấy Tam học làm nhất thể mà hướng tời tu đạo, đó là nghĩa căn bản mà ta không thể bỏ qua.


[1] Về ý nghĩa tâm giải thoáttrí tuệ giải thoát, có thể tham chiếu Visuddhimagga, “Dùng định để ngăn phiền não nên gọi là tâm giảithoát” (Thành-thật-luận, quyển 44, thiện giác phẩm 182).

[2] Tăng nhất a hàm,quyển 2 (Đại chính, 2, trang 557) – A. I,p. 24 – 26, có đưa ra cả Tỷ khưu, Tỷ khưu ni, Tín nam, Tín nữ.

[3] theo Bộ chấp dị luận thì như Khôi sơn trụ bộ (Kê dân bộ, Ngưu gia bộ) lấy luật làm phương tiện, nghiên hẳn về thiền, đó là một thí dụ. Lại nữa, về giá trị tu đạo của giới, định, tuệ thì trong visuddhimagga Chapt, I, p. nói: “Do giới mà vượt ác thú, do định mà siêu Dục giới, do tuệ mà vượt “Tam giới”.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19844)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28957)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20685)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19419)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30484)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36417)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33213)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35541)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20967)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21911)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25255)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25787)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31241)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18560)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25135)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23762)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28929)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20858)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31444)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25546)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29719)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22516)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25714)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23268)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25735)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23718)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40598)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23346)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22442)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22089)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23500)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16957)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23283)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24307)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41094)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18975)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20474)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27720)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38113)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34063)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36785)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 23993)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29177)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60130)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27600)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68731)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24511)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24474)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22689)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26350)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26524)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20817)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20051)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27549)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46415)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53575)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23596)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21082)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25557)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29249)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant