Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 7

12 Tháng Ba 201100:00(Xem: 12793)
Phần 7

KINH BÁCH DỤ
Thích Nữ Như Huyền
Phật Học Viện Quốc Tế Xuất Bản 1996


61. Tạo hình người

Giáo đồ của đạo Bà-la-môn thường tuyên truyền với mọi người rằng: Ðai Phạm Thiên Vương là chú tể tạo ra muôn vật, tất cả muôn vật đều từ kia tạo ra.

Phạm Thiên có một đệ tửý tưởng muốn tạo người, ngày nọ tự mình nắn một hình người kỳ dị: cổ thì nhỏ, đầu thì to, bàn tay rất lớn, mà cánh tay lại nhỏ phi thường, bàn chân nhỏ tí mà gót chân thì lớn kinh người. Y đem hình người ấy đến hỏi Phạm Thiên:

- Thầy xem con tạo hình người nầy nó giống thứ chi?

Phạm Thiên đáp:

- Nó giống một con quỷ!

** Chuyện nầy tỉ dụ: Ngoại đạo thường thường bắt chước lý vô ngại viên dung, hoạt bátcụ thể Phật pháp, nhưng vì bọn họ tu thân không có thức học chân tu, hiểu biết chút ít mà muốn phô trương Phật pháp. Thường thường hình như đúng với Phật pháp mà kỳ thật là sai, trọn thành tà pháp, chấp trước, ngu si, trộm danh dối thể.

Phạm Thiên tạo người chỉ là câu chuyện ngụ ngôn, kỳ thật thân chúng sanh đều do nhân quả nghiệp lực của mọi loài gây tạo, không phải do Phạm Thiên

Phật pháp không chấp trước "hai bên" đã không chấp, "đoạn diệt" cũng không chấp "thường trụ", mà thuyết minh các chúng sanh các pháp đều từ nhân duyên sanh.
 
 
 

62. Ăn thịt

Thuở xưa có một người mắc bệnh trầm trọng, mời vị lương y danh tiếng đến xem mạch.

Lương y bảo:

- Ông nên thường ăn thịt gà con, bệnh sẽ dần dần thuyên giảm.

Người bệnh nghe theo lời lương y, sai người ra mua một con gà con về ăn thịt, y ăn một con rồi không ăn nữa. Lương y đến xem mạch lại cho y, hỏi y sau khi ăn gà con luộc, bịnh tình như thế nào?

Y trả lời:

- Tôi không biết ra sao. Tôi chỉ ăn có một con gà nhỏ, theo tôi tưởng nếm một lần với ăn hoài cũng vậy.

Lương y nói:

- Tại sao ông không ăn nữa? Ông phải ăn luôn mới có thể trị lành, chớ ăn một con làm sao lành được?

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người tu học Phật pháp phải thường học rộng hỏi nhiều, tinh tấn thật tiến tu mãi mãi. Phàm phu ngoại đạo, thường chỉ chấp một pháp, hoặc tìm hiểu chút ít rồi thôi, không có tâm bền bỉ, đương nhiên không thể trị được bệnh độc phiền não ngu si.
 
 

63. Chạy trốn

Thuở xưa tại nước Càn Ðà Vệ có một đoàn ca kịch, nhân vì trong nước phát sanh nạn đói hiểm nghèo, bọn họ mới sữa soạn hành lý ra nước ngoài phô diễn. Ðường đi phải trải qua hòn núi Bà La Tan, nghe đồn trong núi có con quỷ la sát, nó thường ăn thịt người; nhưng đến núi thì trời đã tối, không thể lên chợ được, đoàn hát đành phải ngủ lại đó một đêm.

Trên núi gió nhiều càng lúc càng lạnh, bọn họ phải nhúm lửa để hơ, cả bọn đều nằm ngủ bên đống lửa. Trong bọn có một người phát bệnh nóng lạnh không chịu được hơi lạnh bên ngoài, bèn lấy một bộ đồ diễn kịch mặc nhưng lại lấy nhầm bộ đồ diễn lớp quỷ la sát mặc vào, ngồi bên đóng lửa hơ ấm.

Sau đó, một người trong bọn thức dậy, ngốc đầu dòm thấy bên đống lửa có người mặc đồ của quỷ là sát ngồi, sớn sát không chịu xem kỹ lưỡng, tưỡng là quỷ thật ngồi rình, lập tức ba chân bốn giò cắm đầy chạy một mạch, cả bọn nghe ồn ào đều giật mình thức dậy, không rõ đầu đuôi cũng cắm đầy chạy theo. Bây giờ người mặc bộ đồ quỷ la sát thấy cả bọn đồng chạy rất nhanh, không hiểu ất giàp gì cũng chạy theo sau lưng bọn họ. Khi bọn chạy trước vừa chạy vừa nhìn lại sau, thấy phía sau có con quỷ la sát rược theo rất gấp, kinh hoàng phi thường bèn gắng sức chạy như điên, không quản chong gai đã chẳng kể suối sông lạch nguồn, băng chạy trối chết, thân thể cả bọn đều bị thương, tinh thần tán loạn. Bọn họ chạy đến sáng nhìn ngoái lại xem kỹ người mặc đồ la sát chạy theo sau không phải là quỷ thật. Cả bọn hoàn hồn dừng chân lại.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Chúng sanh thường ở trong vòng phiễn não buộc ràng, trong rừng "ngã kiến" mê muội. Do đấy ở trong bản tâm thanh tịnh vọng khởi vô minh, lưu chuyển sanh tử, hằng chịu sự khổ nã sợ sệt vô cùng, không phút nào được tự do giải thoát. Nếu như co thể phá trừ được "ngã kiến" mê lầm, tiêu hủy được tạp khí phiền não, "tâm cuồng vọng nếu hết tức là bồ đề", thì ngay nơi nhựt dụng hằng ngày, tâm thể chơn như, thanh tịnh, viên minh, tịch chiếu xưa nay của chúng ta hiển hiện, lại có gì đáng lo sợ hoảng kinh. Chính nghĩa là: "Trong trời đất vốn vô sự, người ngu tự quấy nhiểu mình".
 
 

64. Quỷ trong nhà cũ

Thuở xưa có một cái nhà cũ, không có người ở đã lâu thiên hạ đồn đãi có quỷ ở trong ấy, ai nấy kinh sợ phi thường không dám vào ngủ. Bây giờ có người tự cho mình rất can đảm, tuyên bố với mọi người rằng:

- Tôi không sợ gì cả, chiều nay tôi sẽ vào đó ngũ cho mà coi! Ðến chiều quả thật người ấy đi vào đó ngủ. Người nầy đến nơi chạy vào xô cữa. Người đến trước tưởng là quỷ lại, bèn rinh tấm phên ngăn ngang cửa không cho người kia vào; còn người phía ngoài xô cửa tưởng bên trong nhất định là quỷ, rán sức xô cánh cửa cho bật ra muốn vào đánh nhau với quỷ. Sau đó xô được sấn vào, hai người đánh nhau dữ dội. Ðánh nhau cho đến sáng, hai người nhìn rõ mặt nhau mới biết đều không phải là quỷ, trận ác chiến mới dừng.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Trên đời thường có hai đối phương tranh chấp lẫn nhau, ai cũng tự cho mình có lý; kỳ thật cả hai đều là người sai lầm.

Biết không, tất cả sự vật trên thế gian đều do nhân duyên tạm thời hòa hợp sanh khởi; nhơn duyên biệt ly phân tán đều quy về nơi tiêu diệt, bại vong. Phân tẻ cho chín chắn, trong ấy không có một cái gì cố định, bất biến, có thể tự làm chủ tể (ngã) tạo thành? Nhưng người đời phần đông chẳng hiểu đạo lý ấy, ở trong pháp hư vong tụ tán lăng xăng, đua nhau đấu tranh kiên có, dụ như hai người lầm nhau là quỷ ẩu đả với nhau, đều là hạng ngu si đáng thương cả.
 
 

65. Ăn bánh độc

Thuở xưa có một người đàn bà không yêu chồng mà lại có ác cảm. Chị ta đòi ly hôn, nhưng pháp luật không cho phép, lòng rất buồn rầu, trong từng giờ phút tìm phương pháp để mưu hại chồng. Chị ta suy đi nghỉ lại, không có cơ hội thuận tiện ra tay.

Ðến hôm nọ, chồng chị sắp đi ngoại quốc, chị ta chụp ngay cơ hội may, bèn làm năm trăm cái bánh, lén trộn thuốc độc vào trong, bảo chồng mang theo làm thức ăn đỡ dạ trên bước đường thiên lý. Chị ta nói với chồng rằng:

- Anh đi ngoại quốc, lúc nào đói bụng lấy bánh nầy mà ăn.

Người chống không rõ tình cảnh ra sao cả, rất cảm kích lòng tốt của vợ mình, ngậm ngùi từ biệt vợ, sốn sang cất bước phương xa.

Ngày thứ nhất, người kia đi rất khỏe, qua ngọ mà đã đến nước ngoài; vì y không đói bụng, nên không ăn đến một cái bánh mang theo. Ðến tối ngủ trong rừng, y rất sợ dã thú nên leo lên cây nằm ngủ cho yên, bỏ quên năm trăm cái bánh dước gốc cây ấy. Ngay trong đêm ấy giữa rừng sâu, có năm trăm tên cường đạo, ăn cướp năm trăm con ngựa và rất nhiều đồ quý báu của vua nước láng giềng. Bọn họ định đến dưới gốc cây ngủ, vì chạy đường xa nhiều nẻo, nên bụng đói như cào, bỗng nhiêu thấy năm trăm cái bánh dưới gốc cây, chia ra vừa vặn mỗi người một cái không thiếu, không thừa. Cả bọn ăn những mẩu bánh có thuốc ấy, đều chết ngủm dước gốc cây.

Người kia ngủ trên cây đến sáng, sau khi thức dậy trông thấy rất nhiều cường đạo chết nằm la liệt dưới gốc cây. Y bèn cầm con dau bén, đến mỗi tên cường đạo chặt trên thi thể vài dao, giả bộ như y giết chết bọn họ. Sau đó y mới thu lượm bảo vật và ngựa đem đến dân cho vua nước láng giềng mong được lảnh thưởng.

Vua đã đích thân đem một đạo binh di truy tầm cường đạo; đi được nửa đường thì gặp người kia dắt ngựa mang bảo vật đến cho vua.

Vua hỏi:

- Ngươi là ai? Bắt năm trăm con ngựa nầy ở đây vậy?

Người kia trả lời:

- Tôi là người ngoại quốc. Khi tôi đi đường gặp năm trăm tên cường đạo, tôi cùng bọn họ đối địch rất hung hăng, rốt cuộc bọn họ đều bị tôi giết chết, hiện thi thể của họ còn nằm ngổn ngang dước gốc cây. Tôi vội vã dắt ngựa và mang bảo vật đến ra mắt vua, xin vua ban thưởng. Nếu vua không tin thì hãy cùng tôi đến gốc cây xem cho tường tận.

Vua lập tức phái người thân tín đến xem, trở về tâu lại qua y như lời người kia, vua nghe xong vui mừng khắp khởi, cho là việc xưa nay chưa từng có; bèn dắt người kia đồng về kinh thành, ban thưởng cho y rất nhiều quí báu, lại phong cho làm quan tại một địa phương.

Nhưng có một số cựu thần trong nước, đối với y rất tật đố, căm hờn, bèn tâu với vua:

- Người ấy là người nước khác lại, bệ hạ không nên quá tin. Hiện tại bệ hạ quá trọng thưởngưu đãi hơn tất cả cựu thần, điều ấy e chẳng khỏi có chuyện không ổn đáng.

Người kia nghe bọn họ đến trước vua dèm tâu như vậy, nổi giận đùng đùng, bèn lớn tiếng thị oai với bọn họ:

- Như quả ai có sức mạnh phi thường có thể cùng ta đấu võ, thì xin mời lên võ đài giao chiến để thử xem bản lãnh.

Các cựu thần nghe xong lời hâm dọa kinh người, đều không dám lên tiếng. Nhưng qua ngày thứ hai, bọn họ nghĩ ra một kế. Nhân vì trong nước hiện thời, có một cụm rừng hoang vu nguy hiểm, trong ấy có một con sư tử hung ác phi thường, hay chạy lang ra đường vồ người ăn thịt, không ai có thể tiêu trừ mối tai hại ấy, bọn họ bèn tâu với vua:

- Người ngoại quốc ấy đã là người mạnh mẽ sức lực phi thường, không ai địch nổi, giờ đây xin bệ hạ phái y đi giết cho được con sư tử hung ác kia để trừ đại hại cho nước chúng ta.

Vua chấp nhận ý kiến ấy bèn cấp cho y một con đao và một cây côn bảo y đi giết sư tử. Y đã vâng mệnh lệnh của vua, không thể không đi được, bèn can đảm liều lĩnh một phen vào trong rừng rậm để tìm giết sư tử.

Sư tử thấy y đến lập tức rống lên một tiếng kinh hồn, nhảy bổ đến trước mặt, y hoảng hốt vội vã trèo lên cây trốn. Sư tử hả lớn miệng như chậu huyết dòm lên, rồi cất đầu ngó y rống ầm ỹ. Y ở trên cây run sợ muốn phát điên: Con dao đang cầm trong tay rớt xuống dưới gốc cây hồi nào không biết, nhưng nó rớt khéo lạ lùng, rớt ngay vào trong họng con sư tử. Con sư tử bị thương chết liền.

Người kia vui mừng không thể tả, bèn đem thây con sư tử về ra mắt vua. Vua bèn thưởng cho y nhiều gấp bội lúc trước, đa số quần thần đều kính phục y. 

** Trong chuyện nầy bánh bò thuốc độc bỏ dưới gốc cây, thí dụ bố thí không thanh tịnh; giết năm trăm cường đạo dụ như đoạn ngủ dục phiền não chứng được sơ quả Tu Ðã Hoàn. Sau gặp ông vua nước láng giếng dụ như gặp hiền thánh. Cựu thần tật đố mưu hại dụ như ngoại đạo hủy báng và siểm hại hạnh lành. Giết sư tử dụ như chiết phục phiền não, ma oán. Ðược phong thường đại dụ đặng chứng đạo quả.

Chỗ dụng ý chủ yếu trong câu chuyện nầy là nói ra tuy ban đầu không có tịnh tâm, nhưng có lúc nhân bắt tịnh bố thí mà nhờ thiện tri thức giúp đở, có thể gặp được thắng duyên tấn tu đạo quả. Bất tịnh bố thí còn có lúc cũng có thể xuất sanh ra công đức pháp lành. Huống chi ta dùng chánh kiến, thiện tâm, thành ý, hân hoanbố thí, thì xuất sanh công đức lợi lành, đương nhiên là càng thù thắng lợi ích gấp bội.
 
 

66. Chết chìm

Thuở xưa có một người nhà giàu, đem nhiều người xuống biển tìm của báu. Người nhà giàu ấy đã đọc qua rất nhiều sách chỉ cách đi thuyền vượt bể khơi, y nhớ rất kỹ, khoe với mọi người rằng:

- Tình trạng trong biển tôi đều biết. Thí như nói chạm phải đá ngầm, hoặc giả nước biển chảy ngược, trong khi chắc chắn nguy hiểm mười phần, chỉ cần phải cầm cái lái thuyền cho chắc, xem chừng phương hướng cho kỹ càng, kịp thời xoay trở, trong lòng phải luôn luôn bình tỉnh khoan thai, đừng hoảng sợ bối rối thì sẽ được bịnh yên, không có chuyện chi đánh lo ngại. Những phương pháp ấy trong sách có biên chép rõ ràng hiện tại tôi thuôc làu làu không quên một mảy.

Mọi người nghe xong rất tin tưởng nơi y.

Thuyền bọn họ nhổ neo ra giữa biển. Trong thuyền xưa nay vốn có một anh thuyền thưởng chỉ huy, chẳng may ra giữa biển thình lình anh ta mắc bệnh rồi chết. Bây giờ ông nhà giàu kia mới đích thân điều khiển mội việc. Trong lúc thuyền lênh đênh giữa mặt biển, bỗng gặp trận gió to, ba đào chuyển động, khiến chiếc thuyền đảo lộn quay cuồng trong những lần sóng dữ dội không thể tiến tới trước. Mọi người đều nghe ông nhà giàu nói lầm thầm: "Phải nắm chặc mái chèo, phải đổi hướng, phải bình tỉnh". Nhưng trên thực tế y không hiểu chánh xác phải làm cách nào, chẳng biết làm sao đem thuyền ra khỏi cơn sóng gió. Kết quả, sau khi thuyền quay cuống vật lộn với sóng gió một hồi, rồi chìm nhấm xuống đáy biển làm cho mổi người trong thuyền đều bị chết chìm.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Có người chỉ hiểu chút ít văn tự, danh tướng, nhưng đối với nghĩa lý và thật pháp không có chổ nhận hiểu chắc chắn tinh tường; chỉ hiểu chút ít, rồi tự ỷ mình thông minh, cho mình là người trí thức sâu rộng, bèn đem văn tự trên sách bướng bỉnh dạy người một cách hỗn loạn. Kết quả chẳng những tự lầm mà đi hại cho mỗi người không ít. Cho nên trong Phật pháp cốt yếu phải từ nơi "Văn tự bát nhả" mà khởi công hạnh "quán chiếu bát nhả" để thực hành. Mỗi chổ đều đem nghĩa lý văn tự của Phật pháp, áp dụng với sự kinh nghiệm hiểu biết thật tế của mình, tiêu dùng và thể hội biến thành sự hiểu biết của chính mình, rồi đem ra áp dụng tu hành một cách thiết thực, mới có chỗ lợi ích chân thật. Một số người học Phật cùng với một số học giả hiện nay dung chút ít văn cú vô dụng mơ hồ, đều là hạng quan niệm sai lầm không khác.
 
 

67. Ðánh cuộc

Thuở xưa có đôi vợ chồng, ngày nọ làm ba cái bánh, mỗi người ăn một cái rồi, còn thừa một cái, hai người đánh cuộc với nhau rằng: Ai muốn ăn cái bánh ấy thì phải không nói một câu; nếu ai nói trước tức là thua cuộc, không được ăn cái bánh còn thừa. Thế rồi hai vợ chồng trọn ngày nín thinh không nói một tiếng. Chợt có tên ăn trộm vào nhà vơ vét hết của tiền đồ đạc, sữa soạn chạy đi, hai vợ chồng vì sợ thua cuộc mất cái bánh, nên cứ lấy con mắt ngó trân trân tên ăn trộm đang vơ vét đồ đạc trong nhà mà không ai nói một tiếng. Tên ăn trộm thấy vậy càng dạn dĩ thêm lên thậm chí muốn xâm phạm đến tiết hạnh người vợ, mà người chồng vẫn đứng xem, không nói một lời. Người vợ đang khi hoảng hốt kêu ầm ỹ:

- Anh thật là ngu, vì một cái bánh mà để cho quân ăn trộm làm nhục tôi quá đỗi, không mỡ miệng nói một lời?

Người chồng bèn vỗ tay cười lớn:

- Ha, ha! Em đã khai khẩu nói trước, thế là thua anh mất rồi, cái bánh về anh ăn. Thích quá!

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người đời vì tham trước chút danh lợithế gian, thường thường tán mất sự lợi ích rộng lớn của pháp lành và Phật pháp. Người trí thấy thế, cho là hạng ngu si đáng thương, giống như người chồng ngu kia không khác.
 
 

68. Hại người thành hại mình

Thuở xưa có một người thù địch với một người khác, anh nghĩ không ra phương pháp báo thù, cứ uất ức trong lòng mãi không lúc nào vui. Có người hỏi:

- Anh vì sao uất ức buồn rầu?

Anh trả lời:

- Có một ngùi thường hay nói xấu tôi thậm tệ, tôi tức giận vô cùng, tôi hằng nghĩ cách báo phục mối thâm thù ấy, nhưng nghĩ mãi không ra, cho nên tôi tức giận và khổ buồn vô hạn.

Người kia nói:

- Chỉ cần đọc một câu chú bí mật kêu là Tỳ Ðà La có thể giết người kia chết tức khắc. Nhưng trì chú nầy sẽ có một triệu chứng nguy hiểm, nghĩa là sau khi trị xong thì chính thân anh phải chết trước. Tôi nhận thấy tốt hơn anh đứng trì, thì khỏi bị thảm cảnh người thù chưa hại mà chính thân anh đã bị hại rồi.

Người kia nghe thế không cần tính toán, suy nghĩ, vui vẻ phi thường:

- Xin ông làm ơn dạy tôi câu chú ấy, tâm muốn báo thù của tôi mảnh liệt vô cùng, miển sao kẻ thù của tôi có thể chết, dù thân tôi có chết trước tôi cũng vui lòng.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Tánh sân giận kết oán gây thù, tai hại không ít, muốn hại người, thường thường chưa bị hại mà trước đã hại mình; có một ít người vì lòng sân hận sai khiến, hủy hoại thân mình một cách đáng thương. Bọn họ bị lòng sân dẩn dắt, luống đưa mình vào con đường hại mình hại người vô cùng bi thảm, trầm luân vĩnh kiếp không thôi! Chỉ cần mau mau phân tỉnh dùng pháp từ bi thanh tịnh hòa bình để sửa đổi trị thân tâm, khiến cho mình và người đều được an lạc, mới phù hợp với đạo giải thoát, chơn thường.
 
 

69. Tổ truyền ăn mau

Thuở xưa có một người ở phía nam Ấn độ, chính gốc của anh từ bắc Ấn độ lại, vì ở lâu nên cưới vợ miền Nam. Một hôm vợ anh dọn cơm trên bàn; không quản cơm canh nói hổi, anh há miệng lớn lùa húp rất mau, giống như người gần chết đói được thức ăn không khác. Vợ anh th61y thế làm lạ vô cùng, bèn hỏi:

- Không có ai lại dành ăn với anh, cũng không có chuyện gì gấp, tại sao anh không chậm rãi ăn, mà lại ăn mau thế?

Anh trả lời:

- Bí mật lắm! Anh không nói cho em biết đâu. 

Chị vợ nghe thế rồi, cho là nhất địnhlý dođặc biệt lắm, bèn ân cần năn nĩ anh nói ra. 

Ban đầu anh không chịu nói, chị vợ kì kèo hoài anh mới chịu nói:

- Tổ tiên của anh nhiều đời đều ăn như vậy, do đó đến đời anh, anh cũng phải y như thế không dám cãi đổi.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Có một ít người thủ cựu, thường thường không chịu biện biệt lành dử, lợi hại thế nào, chỉ một bế chấp chặt thói quen mê lầm, tà vạy; dương dương tự đắc không biết lỗi mình, không biết xấu hổ, lại cùng không biết cải chánh xả tà. Có ai giúp ý kiến hay khuyên lơn, họ đã không nghe lời phải mà còn trở lại nói đó là sự truyền thống hay ho, phải nên bảo thủ.
 
 

70. Nếm trái tần bà

Thuở xưa có người muốn ăn trái tần bà, bèn sai người làm công đến vườn mua cho được, và dặn rằng:

- Người xem có ngọt thì mua, bằng không ngọt thì đừng mua nhe!

Người làm công mang tiền đến trong vườn trái cây mua.

Người chủ vười nói:

- Tần bà của tôi trái nào cũng ngọt, không có trái nào dở, xin ông hãy nếm thử sẽ biết.

Anh ta nói: 

- Tôi nếm thử một trái, làm sao biết được các trái kia, tôi xin nếm từng trái, hể nếm trái nào thì sẽ mua trái ấy, như thế chắc chắn hơn.

Nói xong anh ta tự tay hái trái tần bà, hể hái một trái thì cắn nếm một miếng. Chủ vườn thấy thế không nói gì cả. Quả thật trái nào cũng ngọt không sai; anh ta mua đem về cho chủ. Người chủ thấy trái nào cũng bị cắn dở, không những hết muốn ăn mà lại gớm vô cùng, buồn nôn muốn mửa, do đó không ăn được một trái, bao nhiêu trái tần bà đều quăng.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Có một người nghe nói bố thí, trì giới, sẽ được giàu sang, tâm thường an ổn, không bị hoạn nạn tai ương; nhưng không chịu tin là thật, muốn chính mình chứng nghiệm cho rõ ràng. Kết quả tự mình mất cơ hội. Nên biết rằng mọi việc trên đời đều do nhơn đời quá khứ cảm triệu hình thành quả. Bọn họ không chịu từ lý nhân quả, khảo xét cho rõ ràng, chạm việc đều thông suốt, đem một việc mà tỉ lệ nhiều, hiểu rỏ đạo lý nhân quá, tiến tới tu học Phật pháp, tô bồi phước huệ căn lành. Trở lại cố chấp: "Cần yếu mỗi việc chính mình phải thân chứng, mới tin". Cứ phó mặc thời gian trôi qua, một mai gần chết, tất cả đều xe bỏ tan tành, sau ăn năn không kịp!


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43175)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 43965)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 43042)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49038)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39874)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53805)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36840)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40834)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49744)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47337)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27760)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 25870)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 29901)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27182)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 24772)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 21330)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23233)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 23894)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22822)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 29592)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20649)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 34186)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 24691)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30049)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20232)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20412)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15148)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 23914)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 34085)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 24011)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29206)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60172)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27630)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68758)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24544)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 26379)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 20829)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20075)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27564)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46460)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 25601)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29280)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 189051)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 27444)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31157)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33180)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 24041)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 25636)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26718)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36681)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 27358)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30388)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37329)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23910)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 36997)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27627)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28347)
Công Phu Khuya
(Xem: 24168)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant