Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nghi cúng lễ giao thừa

30 Tháng Giêng 201400:00(Xem: 39211)
Nghi cúng lễ giao thừa

NGHI CÚNG LỄ GIAO THỪA
(01 – 01 – âm lịch)
 
* Tiết thứ làm nghi :

- Chuông trống Bát nhã. - Cử nhạc khai đàn.

- Chủ lễ đăng điện. - Cử nhạc tham lễ.

- Chủ lễ niệm hương. - Dâng hương - tác lễ.


- CÚNG HƯƠNG (chủ lễ xướng) :

Nguyện đem lòng thành kính,

Gởi theo đám mây hương,

Phưởng phất khắp mười phương,

Cúng dường ngôi Tam Bảo.

Thề trọn đời giữ đạo,

Theo tự tánh làm lành,

Cùng pháp giới chúng sanh,

Cầu Phật từ gia hộ:

Tâm Bồ đề kiên cố,

Chí tu học vững bền,

Xa biển khổ mông mênh,

Chóng quay về bờ giác.

Nam mô Hương Cúng Dường Bồ tát. (3 lần)

 

- TÁN PHẬT (tán dương công đức Phật) :

Đấng Pháp vương vô thượng,

Ba cõi chẳng ai bằng,

Thầy dạy khắp trời người,

Cha lành chung bốn loại.

Qui y tròn một niệm,

Dứt sạch nghiệp ba kỳ, (1)

Xưng dương cùng tán thán,

Ức kiếp không cùng tận!

 

- LỄ PHẬT :

Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng,

Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,

Lưới Đế châuđạo tràng, (2)

Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời.

Trước bảo tọa thân con ảnh hiện,

Cúi đầu xin thệ nguyện qui y.

 

- ĐẢNH LỄ TAM BẢO :

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tận Hư Không, Biến Pháp Giới, Quá Hiện Vị Lai Thập Phương Chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng Thường Trụ Tam Bảo. (1 lễ)

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật; Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật; Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát; Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát; Hộ Pháp Chư Tôn Bồ tát; Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ tát. (1lễ)

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật; Đại Bi Quan Thế Âm Bồ tát; Đại Thế Chí Bồ tát; Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ tát; Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát. (1 lễ)

 

- TÁN HƯƠNG (nhạc cúng hương) :

Hương xông đảnh báu,

Giới định tuệ hương,

Giải thoát tri kiến quí khôn lường,

Ngào ngạt khắp muôn phương,

Thanh tịnh tâm hương,

Đệ tử nguyện cúng dường.

Nam mô Hương Cúng Dường Bồ tát. (3 lần)

 

- TỤNG CHÚ ĐẠI BI :

Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ tát. (3 lần)

Thiên thủ thiên nhãn, vô ngại đại bi tâm đà la ni.

Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam mô a lị gia bà lô kiết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tả. Nam mô tất kiết lật đảo, y mông a lị gia bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà đà, ma phạt đặt đậu đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế,di hê lị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà la đà la, địa rị ni, thất Phật ra da, giá ra giá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắt ni na, ba dạ ma na ta bà ha, tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư gia, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta ba ha. Ba đà ma kiết tất đà dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ ta bà ha. Ma bà rị thắng kiết ra dạ ta bà ha.

Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da bà lô kiết đế thước bàn ra dạ, ta bà ha.

Án tất điện đô mạn đà ra bạt đà dạ ta bà ha.

 - TÁN PHẬT :

Trên trời dưới đất không bằng Phật,

Thế giới mười phương cũng khó bằng,

Thế gian có gì con đã thấy,

Tất cả không ai bằng Phật vậy!

Nam mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo. (3 lần)

 

- BẠCH THỈNH :

Giao thừa Nguyên Đán lễ thiêng liêng,

Cung thỉnh mười phương Phật Thánh Hiền,

Duyên giác, Thanh văn cùng liệt Tổ,

Thiên thần Hộ pháp với Long Thiên.

Thiêu thân liệt Thánh tử vì đạo,

Dủ ánh uy quang giáng toạ tiền,

Lễ nhạc hương hoa xin cúng dưỡng,

Nguyện cầu giáng phước lễ minh niên.

Nam mô Chứng Minh Sư Bồ tát. (3lần)

 - TẤT CẢ NGỒI XUỐNG TỤNG BÀI Ý NGHĨA LỄ.

(tụng chậm, đậu câu thay vì sớ)

Nam mô Long Hoa Giáo Chủ Từ Thị Di Lặc Tôn Phật. (3 lần)

Đêm nay ngày lành Nguyên đán,

Giờ này phút thiêng giao thừa,

Chúng con :

Tuân lệ cổ tục ngày xưa,

Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.

Truyền thừa Di phong thuở trước,

Lên chùa lễ Phật dâng hương.

Cầu minh niên vạn sự cát tường,

Nguyện xuân nhật Tam nguyên như ý!

Cũng trong lễ hôm nay :

Nhớ xưa có Đại sĩ,

Đức Di Lặc hóa sinh,

Huyện Phụng Hóa, Châu Minh,

Thuộc đời Lương, Trung Quốc.

Tin vui của trời đất,

Ân huệ của nhân sinh.

Ngài có một thân hình,

Đầy từ bi hoan hỷ.

Ngài có nhiều thần bí,

Rất khó nghĩ khôn lường.

Và không ít dị thường,

Thật ngờ phàm ngại thánh.

Người có nhiều kỳ hạnh,

Nói năng không định lời.

Xôn xao trong một thời,

Không ai biết sự thật.

Có người bảo là Phật,

Có kẻ gọi là Thầy,

Đi khất thực đó đây,

Ai cúng gì cũng lấy.

Bị vải treo đầu gậy,

Vật phẩm chứa không đầy,

Có lúc thấy ở đây,

Có khi gặp nơi khác.

Khuyên người chớ làm ác,

Dạy người nên làm lành,

Không ai biết tánh danh,

Gọi Bố đại (3) Hòa thượng.

Một hôm người dùng trượng, (4)

Tại núi chùa Nhạc Lâm,

Ngồi trên đá định tâm,

Nói bài kệ vắn tắt :

“Rằng Ta chơn Di Lặc

Phân thân ngàn muôn ức,

Thường hiện trước mọi người

Mọi người tự không biết”.

Nói xong Ngài nhập diệt,

Diệt Đông lại sanh Tây,

Ứng hóa khắp đó đây,

Vận thần thông diệu dụng.

Và trong một dịp khác :

Trước một số dân chúng,

Ngài tuyên bố như vầy :

“Ta có một vị Thầy (Phật)

Mọi người đều không biết,

Không tô vẽ sơn thiếp,

Không một chút thể sắc,

Không chạm trổ điêu khắc,

Không một chút cát bụi,

Sạch sẽ không lau chùi.

Người vẽ vẽ không thành,

Kẻ trộm lấy không được,

Thể tánh vốn tự nhiên.

Tuy là có một thể,

Phân thân ngàn muôn ức”.

Ngài sử dụng thần lực,

Hóa hiện khắp nhơn thiên,

Dạy vẽ kẻ hữu duyên,

Dắt dìu người ít phúc.

Xa lánh đời trần tục,

Đưa về cõi Thiên cung.

Hẹn Long Hoa tam hội trùng phùng,

Nguyện Suất Đà nhất sanh thân cận.

Giờ này mọi nhà kính cẩn,

Xưng dương tán lễ Hồng danh,

Đêm nay trăm họ chí thành,

Trân trọng cúng dường vía Thánh.

Trăm hoa hân hạnh,

Mừng hóa Phật giáng sinh;

Muôn vật vươn mình,

Đón xuân thiên khai thái.

Đến đây tất cả chúng con :

Cúi đầu lễ bái,

Cầu gia đình hạnh phúc an khương;

Ngửa mặt dâng hương,

Nguyện nước nhà hòa bình hưng thịnh.

Năm châu an định,

Bốn biển thanh bình,

Tình với vô tình,

Đồng thành Phật đạo.

Nam mô Đương Lai Hạ Sanh Từ Thị Di Lặc Tôn Phật. (10lần)

 

- TÁN :

Bố đại Hòa thượng,

Di Lặc hóa thân,

Giao thừa mừng đón lễ Tân Xuân,

Ban phước xuống muôn dân,

Hân hạnh trăm phần,

Mừng rước lễ sanh thần. (giờ giáng sinh)

Nam mô Từ Thị Di Lặc Phật. (3lần)

 - TỤNG CHÚ TIÊU TAI :

Nam mô tam mãn đa mẫu đà nẫm, a bát ra để hạ đa xá, ta nẵng nẫm, đát diệt tha. Án khư khư, khư hế khư hế hồng hồng, nhập phạ ra, nhập pha ra, bát ra nhập pha ra, bát ra nhập phạ ra, để sắt sá, để sắt sá, sắt trí rị, sắt trí rị, ta phấn tra, ta phấn tra, phiến để ca, thất rị duệ ta phạ ha. (3 lần)

Nguyện ngày an lành, đêm an lành,

Đêm ngày sáu thời thường an lành,

Tất cả các thời đều an lành,

Xin nguyện Phật từ thường gia hộ.

Nam mô Giáng Cát Tường Bồ tát. (3lần)

 - CHỦ LỄ XƯỚNG :

Tội từ tâm khởi đem tâm sám,

Tâm được tịnh rồi tội liền tiêu,

Tội tiêu tâm tịnh thảy đều không,

Thế giới gọi là chân sám hối.

Nam mô Cầu Sám Hối Bồ tát. (3lần)

- TỤNG CHÚ THẤT PHẬT DIỆT TỘI :

Li bà li bà đế, Cầu ha cầu ha đế, Đà la ni đế, Ni ha ra đế, Tỳ lê nể đế, Ma ha dà đế, Chơn lăng càn đế, ta bà ha. (3lần)

 - HỒI HƯỚNG :

Vừa rồi bao nhiêu công đức,

Bấy nhiêu hương hoa,

Thành kính thiết tha,

Nguyện xin hiến cúng :

Chư Phật Thánh chúng,

Hộ Pháp thiện thần,

Duy nguyện ai lân,

Thùy từ minh chứng.

- PHỤC NGUYỆN :

Phật từ cảm ứng,

Pháp lực hiệu linh.

Gia hộ cho chúng con :

Chờ Phật Từ Thị giáng sinh,

Ngõ nghe Pháp âm tái chuyển.

Đợi thuở Long Hoa xuất hiện,

Hầu thấy Phật nhựt trùng quang.

Mong thế giới bình an,

Nguyện nhơn sinh hạnh phúc.

Năm mới an khang cung chúc,

Đầu xuân phước thọ chào mừng.

Mạch đạo lưu chuyển không ngừng,

Dòng đời đổi thay chẳng dứt.

Chúng con nguyện :

Tạo thêm công đức,

Tiêu bớt tội khiên,

Phủi sạch não phiền,

Trau dồi trí tuệ.

Học đạo Tứ đế,

Tu hạnh Nhất thừa,

Tinh tấn sớm trưa,

Cầu thành Phật đạo.

- LỄ BÁI THÙ ÂN :

Chí tâm đảnh lễ : Tận Hư Không, Biến Pháp Giới Quá Hiện Vị Lai Vô Lượng Thường Trụ Tam Bảo. (1 lễ)

Chí tâm đảnh lễ : Hiện tọa Đạo tràng, Đại Từ Đại Bi, Bổn Sư Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Phật. (1 lễ)

Chí tâm đảnh lễ : Lạc Bang Giáo Chủ Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật. (1 lễ)

Chí tâm đảnh lễ : Long Hoa Giáo Chủ Đương Lai Hạ Sinh Từ Thị Di Lặc Tôn Phật. (1 lễ)

Chí tâm đảnh lễ : Đông Phương Giáo Chủ Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. (1 lễ)

Chí tâm đảnh lễ : Tây Thiên Đông Độ Việt Nam Lịch Đại Truyền Giáo Chư Vị Tổ Sư. (1 lễ)

Chí tâm đảnh lễ : Qui Y, Thế Độ Phú Pháp, Truyền Giới, Giáo Thọ Chư Vị Tổ Sư. (1 lễ)

Chí tâm đảnh lễ : Việt Nam Phật Giáo Lịch Đại Thần Tăng, Thánh Tăng, Cao Tăng, Danh Tăng Chư Vị Tổ Sư. (1 lễ)

Chí tâm đảnh lễ : Chư Thánh Tử Đạo, Chư Vị CưTiền Bối Hữu Công Liệt Vị Giác Linh. (1 lễ)

Đại vì : Đàn na Thí chủ ân, Thiện hữu tri thức ân, đảnh lễ Thập phương thường trụ Tam Bảo. (1 lễ)

Đại vì : Quốc gia ân, chúng sanh ân, sư trưởng ân, phụ mẫu ân, đảnh lễ Thập phương thường trụ Tam Bảo. (1 lễ)

 - KINH BÁT NHÃ :

MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH.

Quán Tự Tại Bồ tát hành, thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

“Xá lợi tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc,sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ, tưởng , hành, thức diệc phục như thị.“Xá Lợi Tử ! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh , bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỉ ,thiệt, thân, ý ;vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh diệc vô vô minh tận, nãi chílão tử diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo, vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố, Bồ đề tát đỏa y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn. Tam thế chư Phật, y Bát nhã Ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la Tam miệu tam Bồ đề. Cố tri Bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chơn thiệt bất hư, cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú. Tức thuyết chú viết :“Yết đế, yết đế, Ba la yết đế, Ba la Tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha”.

 - TÁN :

Giao thừa Nguyên đán lễ nghiêm trang,

Rước Phật đón xuân lễ đã hoàn,

Công đức vô biên ban tất cả,

Vui mừng chúc tụng khắp nhơn gian.

Nam mô Viên Mãn Tạng Bồ tát. (3 lần)

 - TỤNG :

Nguyện tiêu ba chướng trừ phiền não,

Nguyện được trí tuệ thật sáng tỏ,

Nguyện bao tội chướng thảy tiêu trừ,

Kiếp kiếp thường làm hạnh Bồ tát.

Nguyện sanh Cực lạc cảnh Tây phương,

Chín phẩm hoa sencha mẹ,

Hoa nở thấy Phật chứng vô sanh,

Bất thoái Bồ tát là bạn hữu.

Nguyện đem công đức này,

Hướng về khắp tất cả,

Đệ tửchúng sanh,

Đều trọn thành Phật đạo.

 

Tự qui y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lễ)

Tự qui y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rõ kinh tạng, trí tuệ như biển. (1 lễ)

Tự qui y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lễ)

 

- CHỦ LỄ XƯỚNG :

Rước Xuân lễ mãn,

Khánh đản lễ thành,

Chuông trống hòa thanh,

Lễ từ ba lạy.

 

 

*Ghi chú :

(1) Ba kỳ : ba vô số kiếp.

(2) Đế châu : lưới ngọc của trời Đế Thích.

(3) Bố đại : bị vải.

(4) Trượng : gậy.

 

Lời dặn

1/ Khi làm lễ gặp trong nghi có dấu gạch ngắn ở đầu hàng (-) đó là tựa đề của mỗi đoạn trong nghi. Người làm lễ không đọc, không tụng các đoạn ấy.

2/ Gặp đoạn có chữ “Tán Phật, tán hương”, cũng không đọc không tụng mà chỉ tụng hay tán các câu ở dưới kế tiếp.

3/ Vị chủ lễ (sư - cư sĩ) nên hướng dẫn Phật tử làm lễ trong việc đọc tụng rất rõ ràng, thư thái, đậu câu, mạch đoạn phân minh. Gặp các câu dài, nhiều chữ phải cắt làm 2 câu.

4/ Lễ cần trang nghiêmthành kính.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12834)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12760)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11803)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11786)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12404)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12453)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19901)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 12047)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12070)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16947)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12733)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15150)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16200)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12956)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12312)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11973)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11977)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13221)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16567)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13293)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12574)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11909)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19925)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11231)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11323)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10460)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11155)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 11019)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10077)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11801)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11690)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12014)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11157)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11397)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12120)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12604)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10827)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18048)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11764)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 10000)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11284)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13233)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16635)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11918)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10978)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11914)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28869)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12431)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 53167)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35559)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 16118)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12246)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12386)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11469)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17263)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15041)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14665)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13921)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11784)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15110)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant