Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh A Na Luật, Bát Niệm

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12287)
Kinh A Na Luật, Bát Niệm


PHẬT NÓI KINH A NA LUẬT, BÁT NIỆM


Đại Chánh Tân Tu số 0046 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Hậu hán, Tam tạng Pháp sư Chi Khiêm.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


 

Nghe như vầy:

Một thời Phật ở dưới cây Cầu sư, núi Thệ Chi. Hiền giả A na luật ngồi thiền bên bờ đầm vắng, tư duy : “Ðạo pháp là thiểu dục. Ða dục không phải là đạo pháp. Ðạo pháp là tri túc. Không nhàm chán, không phải là đạo. Ở ẩnđạo pháp, ưa thích đồ chúng không phải là đạo. Tinh tấnđạo pháp, giải đãi không phải là đạo. Kiềm chế tâm là đạo pháp, phóng đảng không phải là đạo pháp. Ðịnh ý là đạo pháp, nghĩ nhiều không phải là đạo. Trí tuệđạo pháp, ngu ám không phải là đạo”.

Ðức Phật dùng tâm thánh biết rõ ý của tôn giả. Thí như lực sĩ co duỗi cánh tay, liền bay đến trước tôn giả khen rằng :

–Lành thay ! Lành thay ! Này A na luật. Những điều mà ngươi suy niệm chính là điều mà bậc đại sĩ suy niệm. Hãy lắng nghe ta nói tám điều suy niệm của bậc đại sĩ, hãy khéo suy nghĩthực hành. Hãy nên học Tứ thiền, kiểm soát ý, quán sát, không bỏ nữa chừng, chắc chắn được đại lợi, không mất chí nguyện. Sao gọi là Tứ thiền ? Ðó là xả bỏ pháp dục ác, bất thiện, ý được hoan hỷNhất thiền hạnh. Nhờ xả niệm ác, chuyên tâm một cảnh, không cần hoan hỷNhị thiền hạnh. Hoan hỷ đã chấm dứt, chỉ như pháp quán, rõ thấy khổ vui là Tam thiền hạnh. Ðã bỏ khổ vui, lo mừng đều đoạn mà an trụ thanh tịnhTứ thiền hạnh. Ðã học như vậy rồi, sau đó thực hành tám điều suy niệm của bậc đại nhân. Tứ thiềnphương pháp kiểm soát ý, ưa thấy nơi hành được lợi nguyện nhanh, không bỏ cuộc nữa chừng. Vã lại, người thiểu dục thí như vua có cận thần, chủ các rương hòm chứa đầy y phục đẹp, nhưng vua lại thích mặc đồ cũ, thiểu dục tri túc, ở ẩn, tinh tấn, chí tâm, định ý, trí tuệ, bỏ gia đình, không vui chơi, ngạo mạn, không có sai lầm, chắc chắn đó là người an ổn, đi đến cửa Nê hoàn. Ðó là tám điều suy nghĩ của bậc đại nhân.

Nhưng Tứ thiền để kiểm soát ý, quán sát, nghĩa của nó như nhà vua có cận thần trông coi việc nấu nướng, điều chế năm vị, nhưng vua lại ưa thích việc đi khất thực, mục đích để nuôi thân, không mong hưởng thụ. Ý nghĩa của nó như nhà vua có lầu các để trông xem, nhưng tự vui thích núi đầm rừng cây, chỗ yên tịnh, tinh tấn vô dục đối với thế gian. Ý nghĩa như nhà vua có cận thần, chủ các thứ thuốc hay và lạc, tô, đề hồ, thạch, mật, nhưng vua lúc có bệnh dùng nước tiểu tiện để được trừ bỏ khổ não. Nhờ thực hành tám suy niệm, tư duy tứ thiền, tinh tấn không thiếu sót, tâm không sai lầm, chắc chắn tự mình an ổn, đi tới cửa Nê hoàn.

Ðức Phật nói như vậy xong, liền trở về Thệ Chi, bảo các đệ tử : “Ðạo thì phải thiểu dục, không được đa dục. Ðạo thì phải tri túc, không được chứa nhóm cho dư. Ðạo thì phải phải ở chỗ yên tịnh, không nên ưa thích hội chúng. Ðạo thì phải tinh tấn, không được giải đãi. Ðạo thì phải kiềm chế tâm, không đượcphóng dật. Ðạo thì phải định ý, không được loạn ý. Ðạo thì phải có trí tuệ, không được ngu ám. Tỳ kheo phải lấy sự thiểu dục làm vui thích. Ðó là thân tự thiểu dục, nhưng đừng để người biết mình thiểu dục. Ý nghĩa như vậy mới đúng.

Tỳ kheo tri túc đó là bình bát, y phục, giường chõng, thuốc men chửa bệnh, các thứ đủ dùng thì thôi, đừng nên chứa nhóm cho dư. Ý nghĩa như vậy mới đúng. Tỳ kheo ở ẩn, đó là tránh người thế gian, không nhập vào chúng hội, ở xa nơi núi đầm, hang đá, gốc cây. Như có tứ chúng hoặc vua, đại thần đến để hỏi đạo thì hãy nói pháp thanh tịnh cho họ nghe, xong rồi đi liền. Thí như kẻ nghèo mắc nợ người giàu có, bị chủ lôi kéo, kẻ ấy muốn xa lìa, không thích ở ẩn xa lìa mọi người. Như vậy mới đúng nghĩa. Tỳ kheo tinh tấn là đoạn trừ điều phi pháp, siêng năng thực hành kinh đạo, chưa hề giải đãi. Ðầu đêm, nữa đêm, cuối đêm kinh hành, ngồi hay nằm, thường giác ngộ tâm ý, nhớ nghĩ điều thanh tịnh để trừ ngũ cái. Như vậy mới đúng nghĩa. Tỳ kheo kiềm chế tâm là bỏ dục, ác pháp, ngồi định ý, tư duy, quán tưởng để đoạn trừ khổ, lạc được tứ thiền hạnh. Như vậy là đúng nghĩa. Tỳ kheo định ý là thường nhất tâm quán thân, quán ý, không bị hành động sai khiến, nhiếp niệm theo đạo, bỏ tưởng ngu si não hại. Như vậy là đúng nghĩa. Tỳ kheo trí huệ đó là biết Tứ đế : khổ, tập, tận, đạo. Sao gọi là Khổ đế ? Ðó là sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, ưu bi não khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng tội khổ, sở dục bất đắc khổ. Tóm lại ngũ thạnh ấm là khổ. “Sanh khổ” là con người tùy theo hành động dẫn dắt thọ vào bào thai mà thành sanh, có hình thể, hiện căn thân, có nhập có thọ mà lớn lên. “Già khổ” là các căn con người đã chín mùi, hình thể đã thay đổi, tóc bạc, răng long, gân mỏi, da nhăn, lưng còng phải chống gậy mà đi. “Bệnh khổ” là con người bị tội hành hạ đến nỗi bị ung thư, ghẻ mũ, kinh phong, điên cuồng... Bệnh có rất nhiều, hơn một trăm thứ. “Chết khổ” là con người mạng chung, thân hình hư nát, hơi ấm không còn, tắt thở, hồn thần đã lìa. Những thứ ấy đều là khổ.

Sao gọi là Tập đế ? Ðó là không thọ, không nhập, ái đã hết sạch không còn nữa, sự trói buộc đã mở, người thấy bằng trí tuệ, không còn tất cả. Người thế gian không có ai thấy sự trói buộc của năm ấm. Vị này không còn tái sanh nữa, đã mở hết các dây ái trói buộc, nhờ trí tuệ mà thấy “phi thường, khổ, không, phi thân”, nên đã đoạn trừ. Ðó là Tập đế.

Sao gọi là Ðạo đế ? Ðó là tám trực đạo : chánh kiến, chánh tư, chánh ngôn, chánh hành, chánh trị, chánh mạng, chánh chí và chánh định. Sao gọi là chánh kiến ? Chánh kiến có hai loại : có tục có đạo, biết có nhân nghĩa, biết có cha mẹ, biết có Sa môn, Phạm chí, biết có kẻ đắc đạo, chơn nhân, biết có đời này đời sau, biết có thiện ác tội phước. Từ đây đến bên kia nhờ thực hànhchứng đạo. Ðó là chánh kiến thế gian. Nhờ hiểu Tứ đế : khổ, tập, tận, đạo, đã được huệ kiến “không, tịnh, phi thân”. Ðó là đạo chánh kiến.

Chánh tư cũng có hai. Suy tư về học vấn, suy tư về hòa kính, suy tư về giới, thận, suy tư về vô hại. Ðó là thế gian chánh tư. Suy tư về xuất xứ, suy tư về nhẫn, im lặng, suy tư về sự diệt sạch hết ái trước. Ðó là đạo chánh tư.

Chánh ngôn cũng có hai. Không nói hai lưỡi, không nói lời ác, mắng chửi, không nói dối, không nói lời thêu dệt. Ðó là chánh ngôn của thế gian. Lìa bốn lỗi của miệng, giảng thông lời đạo, tâm không tạo tác, sạch hết không còn tàn dư nữa. Ðó là chánh ngôn của đạo.

Chánh hạnh cũng có hai. Thân làm điều thiện, miệng nói điều thiện, tâm nghĩ điều thiện. Ðó là chánh hạnh của thế gian. Thân miệng tinh tấn, tâm niệm tịnh, tiêu diệt phóng đãng, chấp trước. Ðó là chánh hạnh của đạo.

Chánh trị cũng có hai. Không sát không đạo, không dâm, không tự mình cống cao, tu đức tự phòng thủ. Ðó là chánh trị của thế gian. Lìa bỏ ba điều ác của thân, trừ đoạn khổ tập, diệt ái cầu độ thoát. Ðó là chánh trị của đạo.

Chánh mạng cũng có hai. Cầu tiền của theo đạo nghĩa, không tham của một cách bừa bãi, không dùng tâm dối trá với người. Ðó là chánh mạng của thế gian. Ðã xa lìa tà nghiệp, bỏ chức vị thế gian, không phạm sự ngăn cấm của đạo. Ðó là chánh mạng của đạo.

Chánh trí cũng có hai. Không ganh tị, không giận hờn, không tà vạy. Ðó là chánh trí củathế gian. Lìa ba điều ác của tâm, thực hành bốn điều đoan chánh của ý, thanh tịnh vô vi. Ðó là chánh trí của đạo.

Chánh định cũng có hai. Thể tánh thuần thục, điều hòa theo điều lành, an tâm kiên cố, tâm không quanh co tà vạy. Ðó là chánh định của thế gian. Ðược bốn ý chí, tưởng nhớ không, vô tưởng, không nguyện, thấy nguồn gốc của Nê hoàn. Ðó là chánh định của đạo. Ðó là Ðạo đế.

Tỳ kheo bỏ nhà, dứt bỏ ân ái, suy tư về đạo một cách an tịnh, không có luyến ái, hâm mộ, ý không chạy theo dục, thanh tịnh, không chướng ngại. Ðó là nghĩa của đạo pháp, phải tuân theo như vậy.

Hiền giả A na luật nghe đức Phật nói kinh, khai mở, dẫn dắt ý của Ngài. Ngài thọ trì thực hành trong ba tháng thì lậu tận trừ, ý giải thoát, được ba trị, đã chứng đạo rồi, tự biết mình đã được A la hán, liền nói bài kệ :

Không nhàm chán dục lạc.

dục lạc phóng tâm.

Do đó phải chịu khổ.

Làm ác nhiều trói buộc.

Thiểu dục biết đạo hạnh.

Biết thẹn không tự kiến.

Pháp này được thanh tịnh.

Xa ác, thoát thế gian.

Ta dùng Như không định.

Các khổ được diệt trừ.

Theo lời đức Phật dạy.

Giữ hạnh bỏ dục ác.

Bỏ tai hoạn nơi thân.

Ðược lợi theo vô vi.

Từ đó được ba trị.

Ðã nhổ gốc ân ái.

Ngay nơi xóm Duy sa.

Vườn trúc, Bát Nê hoàn

PHẬT NÓI KINH A NA LUẬT, BÁT NIỆM

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12833)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12758)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11802)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11783)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12401)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12452)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19897)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 12047)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12070)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16947)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12732)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15150)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16197)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12948)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12311)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11973)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11975)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13218)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16566)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13288)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12570)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11906)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19924)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11229)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11322)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10458)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11154)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 11017)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10075)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11798)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11689)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12007)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11151)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11394)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12116)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12603)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10824)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18044)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11759)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9995)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11283)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13232)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16629)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11915)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10975)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11913)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28867)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12429)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 53162)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35558)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 16118)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12245)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12384)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11460)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17258)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15037)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14660)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13920)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11776)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15106)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant